01 Admin Post
Nguyễn Hoàng Sơn 2023-09-21
NHỮNG NGƯỜI CÓ HỌ TRONG PHẠM VI BA ĐỜI GỒM NHỮNG AI THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH?

1. Những người có họ trong phạm vi ba đời gồm những ai theo Luật Hôn nhân và gia đình? Theo khoản 18 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì những người có họ trong phạm vi ba đời là những người cùng một gốc sinh ra gồm cha mẹ là đời thứ nhất; anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì là đời thứ ba. 2. Quy định về bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình Quy định về bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình theo Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 như sau: - Quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập, thực hiện theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. - Cấm các hành vi sau đây: + Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo; + Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn; + Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ; + Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng; + Yêu sách của cải trong kết hôn; + Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn; + Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính; + Bạo lực gia đình; + Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi. - Mọi hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình phải được xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan khác có thẩm quyền áp dụng biện pháp kịp thời ngăn chặn và xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình. - Danh dự, nhân phẩm, uy tín, bí mật đời tư và các quyền riêng tư khác của các bên được tôn trọng, bảo vệ trong quá trình giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình. 3. Trách nhiệm của Nhà nước và xã hội với hôn nhân và gia đình Trách nhiệm của Nhà nước và xã hội với hôn nhân và gia đình theo Điều 4 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 như sau: - Nhà nước có chính sách, biện pháp bảo hộ hôn nhân và gia đình, tạo điều kiện để nam, nữ xác lập hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng; xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc và thực hiện đầy đủ chức năng của mình; tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về hôn nhân và gia đình; vận động nhân dân xóa bỏ phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình, phát huy truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc. - Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về hôn nhân và gia đình. Các bộ, cơ quan ngang bộ thực hiện quản lý nhà nước về hôn nhân và gia đình theo sự phân công của Chính phủ. Ủy ban nhân dân các cấp và các cơ quan khác thực hiện quản lý nhà nước về hôn nhân và gia đình theo quy định của pháp luật. - Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giáo dục, vận động cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, các thành viên của mình và mọi công dân xây dựng gia đình văn hóa; kịp thời hòa giải mâu thuẫn trong gia đình, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên gia đình. Nhà trường phối hợp với gia đình trong việc giáo dục, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hôn nhân và gia đình cho thế hệ trẻ. 

Chi Tiết
01 Admin Post
Nguyễn Hoàng Sơn 2023-09-13
CĂN CỨ HỦY VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT

1. Kết hôn trái pháp luật là gì?Theo khoản 6 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì kết hôn trái pháp luật là việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng một bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.Theo đó, tại Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về điều kiện kết hôn như sau:* Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:- Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;- Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;- Không bị mất năng lực hành vi dân sự;- Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình 2014:+ Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;+ Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;+ Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;+ Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng.* Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.2. Căn cứ hủy việc kết hôn trái pháp luậtTheo Điều 2 Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP thì Khi giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật, Tòa án phải căn cứ vào điều kiện kết hôn quy định tại Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 để xem xét, quyết định xử lý việc kết hôn trái pháp luật và lưu ý một số điểm như sau:(1)  “Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên” là trường hợp nam đã đủ hai mươi tuổi, nữ đã đủ mười tám tuổi trở lên và được xác định theo ngày, tháng, năm sinh.Trường hợp không xác định được ngày sinh, tháng sinh thì thực hiện như sau:- Nếu xác định được năm sinh nhưng không xác định được tháng sinh thì tháng sinh được xác định là tháng một của năm sinh;- Nếu xác định được năm sinh, tháng sinh nhưng không xác định được ngày sinh thì ngày sinh được xác định là ngày mùng một của tháng sinh.(2) “Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định” là trường hợp nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau hoàn toàn tự do theo ý chí của họ.(3) “Lừa dối kết hôn” là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch và dẫn đến việc đồng ý kết hôn; nếu không có hành vi này thì bên bị lừa dối đã không đồng ý kết hôn.(4) “Người đang có vợ hoặc có chồng” là người thuộc một trong các trường hợp sau đây:- Người đã kết hôn với người khác theo đúng quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình nhưng chưa ly hôn hoặc không có sự kiện vợ (chồng) của họ chết hoặc vợ (chồng) của họ không bị tuyên bố là đã chết;- Người xác lập quan hệ vợ chồng với người khác trước ngày 03-01-1987 mà chưa đăng ký kết hôn và chưa ly hôn hoặc không có sự kiện vợ (chồng) của họ chết hoặc vợ (chồng) của họ không bị tuyên bố là đã chết;- Người đã kết hôn với người khác vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình nhưng đã được Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân bằng bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và chưa ly hôn hoặc không có sự kiện vợ (chồng) của họ chết hoặc vợ (chồng) của họ không bị tuyên bố là đã chết.(5) Việc xác định thời điểm “cả hai bên kết hôn đã có đủ các điều kiện kết hôn” quy định tại khoản 2 Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 phải căn cứ vào các quy định của pháp luật. Tòa án yêu cầu đương sự xác định và cung cấp các tài liệu, chứng cứ để xác định thời điểm cả hai bên kết hôn đã có đủ các điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.   

Chi Tiết
01 Admin Post
Nguyễn Hoàng Sơn 2023-09-07
THUẬN TÌNH LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI VÀ NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT

1.Thuận tình ly hôn là gì? Theo khoản 14 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014(Luật HN&GĐ) nêu rõ: “Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.” Cũng theo Luật HN&GĐ, vợ/chồng hoặc cả hai người đều có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn: - Nếu chỉ vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn thì thực hiện theo thủ tục ly hôn theo yêu cầu của một bên (ly hôn đơn phương). - Nếu cả hai vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn thì thực hiện theo thủ tục thuận tình ly hôn. Do đó, có thể hiểu thuận tình ly hôn là ly hôn khi có sự đồng ý, thỏa thuận của cả hai vợ chồng. Theo Điều 55 Luật HN&GĐ quy định về điều kiện để Tòa án công nhận việc thuận tình ly hôn của hai vợ chồng, cụ thể: “Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn.” Có thể nói, sự tự nguyện thực sự của vợ chồng là điều kiện để Tòa án công nhận thuận tình ly hôn. 2. Thuận tình có yếu tố nước ngoài Theo quy định tại Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về việc ly hôn có yếu tố nước ngoài như sau: “Điều 127. Ly hôn có yếu tố nước ngoài Việc ly hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt Nam được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam theo quy định của Luật này. Trong trường hợp bên là công dân Việt Nam không thường trú ở Việt Nam vào thời điểm yêu cầu ly hôn thì việc ly hôn được giải quyết theo pháp luật của nước nơi thường trú chung của vợ chồng; nếu họ không có nơi thường trú chung thì giải quyết theo pháp luật Việt Nam. Việc giải quyết tài sản là bất động sản ở nước ngoài khi ly hôn tuân theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó.” Như vậy, trường hợp được xem là ly hôn có yếu tố nước ngoài khi thỏa các điều kiện nêu trên. Theo đó khi hai vợ chồng đều tự nguyện ký vào đơn ly hôn; đã có những thỏa thuận về tài sản; con cái và các vấn đề liên quan thì khi đó có thể tiến hành thủ tục xin ly hôn. Các trường hợp được xác định là thuận tình ly hôn có yếu tố nước ngoài: - Theo quy định tại Khoản 25 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì các trường hợp được xác định là quan hệ hôn nhân và gia đình yếu tố nước ngoài như sau: “Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình mà ít nhất một bên tham gia là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; quan hệ hôn nhân và gia đình giữa các bên tham gia là công dân Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập; thay đổi; chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài; phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.” - Theo đó để được xác định là ly hôn thuận tình có yếu tố nước ngoài khi đáp ứng được yêu cầu về mặt chủ thể hoặc quan hệ pháp luật và theo quy định của pháp luật Việt Nam còn thỏa mãn được ba yêu cầu như sau: + Cả hai đều mong muốn ly hôn và cùng ký vào đơn ly hôn. + Thỏa thuận được vấn đề con cái và đảm bảo quyền lợi cho con cái. + Thỏa thuận được vấn đề tài sản khi ly hôn. Nếu không đáp ứng được chỉ 1 trong 3 yêu cầu trên thì trường hợp ly hôn được Tòa án xác định là ly hôn đơn phương với người nước ngoài.  Ly hôn có thể được tiến hành do yêu cầu của hai bên hoặc do yêu cầu của một bên. Trường hợp hai vợ chồng đều mong muốn ly hôn và đã thỏa thuận được các vấn đề con cái; tài sản thì sẽ được xác định là ly hôn do yêu cầu của hai bên hay nói cách khác là tiến hành thuận tình ly hôn. 3. Mức đóng án phí ly hôn với người nước ngoài Đối với trường hợp ly hôn thuận tình Trường hợp ly hôn thuận tình có tài sản chung và vợ chồng đã được thoả thuận thì sẽ không phải nộp án phí chia tài sản theo giá ngạch. Như vậy lệ phí ly hôn đồng thuận hai vợ chồng phải nộp là 300.000 đồng theo quy định của Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH. Đối với ly hôn đơn phương Đối với trường hợp đơn phương ly hôn tiền án phí mà vợ chồng phải nộp khi thực hiện thủ tục ở Tòa án cấp sơ thẩm sẽ được xác định hai trường hợp sau: - Trường hợp 1: Toà án chỉ giải quyết quan hệ hôn nhân Trường hợp này chỉ cần phải đóng án phí ly hôn không có giá ngạch với mức án phí sơ thẩm là 300.000 đồng. - Trường hợp 2: Toà án giải quyết quan hệ hôn nhân, tài sản, con chung Đối với vụ án ly hôn có tranh chấp về tài sản (có ngạch) thì án phí được xác định theo giá trị tài sản như sau: + Tài sản dưới 6.000.000 đồng: 300.000 đồng. + Tài sản từ 6.000.000 đến 400.000.000 đồng: 5% giá trị tài sản có tranh chấp. + Tài sản từ 400.000.000 đến 800.000.000 đồng: 20.000.000 đồng + 4% của phần vượt quá 400.000.000 đồng. + Tài sản từ 800.000.000 đến 2.000.000.000 đồng: 36.000.000 đồng + 3% của phần vượt quá 800.000.000 đồng. + Tài sản từ 2.000.000.000 đến 4.000.000.000 đồng: 72.000.000 đồng + 2% của phần vượt quá 2.000.000.000 đồng. + Tài sản trên 4.000.000.000 đồng: 112.000.000 đồng + 0,1% của phần vượt quá 4.000.000.000 đồng. Ngoài ra còn có Lệ phí ủy thác tư pháp xác minh ra nước ngoài là 200.000 đồng. 4. Trình tự, thủ tục chuẩn bị hồ sơ thuận tình ly hôn với người nước ngoài Bước 1: Chuẩn bị hồ sơ ly hôn Hồ sơ ly hôn thuận tình có yếu tố nước ngoài được chuẩn bị theo danh mục. Các giấy tờ trong hồ sơ ly hôn nếu được cơ quan nước ngoài cấp cần phải được hợp pháp hóa lãnh sự. Hồ sơ thuận tình ly hôn gồm có: - Đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; - Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn (Bản gốc); Trong trường hợp việc đăng ký kết hôn được thực hiện tại nước ngoài thì bạn cần phải thực hiện thủ tục ghi chú kết hôn theo quy định. - Hộ chiếu/CMND/CCCD của vợ và chồng (bản sao chứng thực). - Sổ hộ khẩu của/Sổ tạm trú/Thẻ tạm trú của vợ chồng (bản sao chứng thực). - Bản sao Giấy khai sinh của con (nếu có con). - Các tài liệu, chứng cứ khác chứng minh tài sản chung (nếu có). - Đơn đề nghị vắng mặt của người yêu cầu.(trường hợp đương sự vắng mặt). Bước 2: Nộp hồ sơ ly hôn thuận tình có yếu tố nước ngoài - Tòa án cấp tỉnh nơi bạn có hộ khẩu tại Việt Nam có thẩm quyền giải quyết ly hôn khi cho vợ/chồng người nước ngoài. Có thể nộp đến Tòa án thông qua đường bưu điện hoặc ủy quyền cho Luật sư hoặc người quen nhận hồ sơ và nộp trực tiếp đến Tòa án. Bước 3: Tòa án thụ lý hồ sơ và giải quyết yêu cầu thuận tình ly hôn - Sau khi tiếp nhận hồ sơ; Tòa án xem xét về thẩm quyền và tính hợp lệ của hồ sơ ly hôn trong vòng 8 ngày làm việc. Nếu như hồ sơ hợp lệ; Tòa án ra thông báo nộp tiền tạm ứng án phí/ lệ phí cho người yêu cầu với thời hạn đóng 05 ngày. Sau khi người yêu cầu ly hôn hoàn thành việc đóng phí theo thông báo; vụ việc ly hôn chính thức được Tòa án thụ lý và giải quyết theo quy định. - Trường hợp đương sự không có thời gian thực hiện các thủ tục, thì có thể ủy quyền cho Luật sư để thực hiện việc đóng tạm ứng án phí/ lệ phí Tòa án; thực hiện các thủ tục tại Tòa án để giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài. Việc ủy quyền phải được chứng thực theo quy định của pháp luật. Bước 4: Tòa án mở phiên họp giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn - Thủ tục hòa giải tại Tòa án khi ly hôn tại Việt Nam là bắt buộc. Tuy nhiên, nếu có một hoặc cả hai không có mặt thì Toà án sẽ không tổ chức hoà giải. Bước 5: Tòa án ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn - Quyết định công nhận thuận tình ly hôn sẽ có hiệu lực ngay khi ban hành. Khi đó, vợ chồng không thể kháng cáo quyết định này đến Tòa án. Hồ sơ tiến hành thuận tình ly hôn có yếu tố nước ngoài 5. Thẩm quyền giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài Thẩm quyền giải quyết ly hôn được thực hiện theo quy định tại khoản 2, Điều 123, Khoản 1 Điều 127 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 và các Điều 28, 35, 37, 40 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Căn cứ theo theo quy định tại Khoản 3 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì những tranh chấp, yêu cầu mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nhân dân cấp Tỉnh. Như vậy, đa số các yêu cầu giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài thường thuộc thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nhân dân cấp Tỉnh. Trong trường hợp đặc biệt ly hôn có yếu tố nước ngoài thuộc Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện như sau: Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cư trú của công dân Việt Nam hủy việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam theo quy định của Bộ luật này và các quy định khác của pháp luật Việt Nam. 

Chi Tiết
01 Admin Post
Nguyễn Hoàng Sơn 2023-09-07
05 BẢN ÁN VỀ LY HÔN VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI

1. Bản án 43/2020/HNGĐ-ST ngày 21/09/2020 về ly hôn - Cấp xét xử: Sơ thẩm - Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng - Trích dẫn nội dung: “Bà và Ông Tang Perrie C tự nguyện đăng ký kết hôn theo pháp luật Việt Nam; được Ủy ban nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng, cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 24-7-2018. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại Đà Nẵng được 02 tháng thì ông C trở về Hoa Kỳ còn bà thì vẫn ở Việt Nam; từ đó đến nay ông C chưa trở lại Việt Nam lần nào cũng như bà không thể qua Hoa Kỳ để gặp ông. Sau khi ông C trở về Hoa Kỳ được khoảng 07 tháng thì giữa vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do mỗi người sống mỗi nơi, tình cảm vợ chồng lạnh nhạt dần theo thời gian. Đến nay bà xác định không còn tình cảm vợ chồng với nhau nữa nên nguyện vọng của bà là được ly hôn với Ông Tang Perrie C.” - Quyết định của Tòa án: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của Bà Nguyễn Thị Thanh B đối với Ông Tang Perrie C. 2. Bản án 930/2020/HNGĐ-ST ngày 06/07/2020 về ly hôn - Cấp xét xử: Sơ thẩm - Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh - Trích dẫn nội dung: “Bà Nguyễn Thị Mỹ T và ông S Steven kết hôn hợp pháp vào năm 2014, được Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn. Sau khi kết hôn ông S Steven trở về nước nên vợ chồng chỉ liên lạc qua mạng xã hội và tin nhắn điện thoại. Thời gian gần đây, ông S Steven thường xuyên ghen tuôn vô cớ, xúc phạm danh dự nhân phầm bà trên tin nhắn và trang mạng xã hội. Mặc khác, nhiều lần về Việt Nam, ông S Steven còn có người phụ nữ khác. Bà đã nhiều lần tạo điều kiện hàn gắn để vợ chồng có thể đoàn tụ nhưng không có kết quả. Nhận thấy mâu thuẫn của hai vợ chồng kéo dài không thể hàn gắn, tình trạng hôn nhân trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà đề nghị Toà án cho bà được ly hôn với ông S Steven.” - Quyết định của Tòa án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Mỹ T: Bà Nguyễn Thị Mỹ T được ly hôn ông S Steven. 3. Bản án 24/2021/HNGĐ-ST ngày 12/03/2021 về ly hôn - Cấp xét xử: Sơ thẩm - Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội - Trích dẫn nội dung: “Bà NTTH quen biết ông SCD thông qua một người bạn giới thiệu từ tháng 2/2008 trong lần ông SCD đến Việt Nam chơi. Trong thời gian 1 tháng ông SCD ở Việt Nam, hai người đến Sở Tư pháp thành phố Hà Nội đăng ký kết hôn vào ngày 18/3/2008. Sau đó ông SCD trở về Mỹ. Bà NTTH vẫn ở lại Việt Nam để làm thủ tục để xin cấp thị thực nhưng bị Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam từ chối cấp thị thực. Kể từ đó, bà NTTH bắt đầu mất liên lạc không gặp ông SCD. Bà NTTH xác định chưa chung sống với ông SCD từ thời điểm đăng ký kết hôn đến nay. Hai bên không quan tâm đến nhau, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó bà NTTH đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội giải quyết cho ly hôn ông SCD.” - Quyết định của Tòa án: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà NTTH. Bà NTTH được ly hôn và chấm dứt quan hệ hôn nhân với ông SCD. 4. Bản án 65/2021/HNGĐ-ST ngày 13/05/2021 về xin ly hôn - Cấp xét xử: Sơ thẩm - Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội - Trích dẫn nội dung: “Theo Đơn khởi kiện anh Casteret RH Jean RH trình bày: Tôi và chị Phùng Thị CT tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn ngày 04/01/2011 tại UBND thành phố Hà Nội. Quá trình chung sống, vì những khác biệt quá lớn về văn hóa, ngôn ngữ, quan điểm, lối sống nên vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn. Cả hai đã cố gắng điều chỉnh cách nghĩ, thói quen sinh hoạt nhưng không thể hòa giải được những bất đồng. Từ năm 2013 đến nay chúng tôi đã sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Tôi thấy cuộc hôn nhân của chúng tôi không có hạnh phúc, mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chúng tôi được ly hôn.” - Quyết định của Tòa án: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa anh Casteret RH Jean RH và chị Phùng Thị CT. Anh Casteret RH Jean RH và chị Phùng Thị CT được chấm dứt hôn nhân. 5. Bản án 433/2020/HNGĐ-ST ngày 31/03/2020 về ly hôn - Cấp xét xử: Sơ thẩm - Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh - Trích dẫn nội dung: “Ông Đỗ Ngọc V và bà Le Tatyana T tự nguyện kết hôn vào năm 2016. Sau khi kết hôn ông và bà Le Tatyana T chung sống với nhau được khoảng 02 tháng. Trong thời gian chung sống ông và bà Le Tatyana T thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống và tính cách không hợp. Sau đó bà Le Tatyana T quay trở về Hoa Kỳ sinh sống và làm việc bà Le Tatyana T cũng không làm thủ tục bảo lãnh ông sang Hoa Kỳ sống cùng với bà. Từ khi bà Le Tatyana T về Hoa Kỳ ông và bà Le Tatyana T không còn liên lạc với nhau, cũng không còn chung sống với nhau ông và bà Le Tatyana T không có thời gian cùng nhau nói chuyện và hàn gắn tình cảm nên mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Nay ông nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, khả năng đoàn tụ không có, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông làm đơn gửi Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu ly hôn với bà Le Tatyana T để có điều kiện ổn định cuộc sống.” - Quyết định của Tòa án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Đỗ Ngọc V. 

Chi Tiết
01 Admin Post
Nguyễn Hoàng Sơn 2023-09-07
CHIA NHÀ KHI LY HÔN: VẪN ĐƯỢC QUYỀN Ở LẠI CHO ĐẾN KHI NHẬN ĐỦ TIỀN CHÊNH LỆCH?

Tại Bản án 13/2018/HNGĐ-PT ngày 07/05/2018 về tranh chấp tài sản chung của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương có nội dung như sau: “Bà Mai Thị T và ông Vũ Văn Đ kết hôn vào năm 1977, có đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, sau khi kết hôn từ năm 1977 vợ chồng chung sống được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Bà T và ông Đ sống ly thân đã lâu và không còn tình cảm nên bà T làm đơn khởi kiện ly hôn, ông Đ nhất trí. Bà T ông Đ đều xác định tài sản chung của vợ chồng gồm có diện tích 123,2m2 đất ở, địa chỉ đường L, phường T, thành phố H, tỉnh Hải Dương, trên đất có nhà xây mái bằng bê tông cốt thép ba tầng. Khi ly hôn ông bà đề nghị chia đôi tài sản chung của vợ chồng cho mỗi người một nửa. Quan điểm của bà T: bà nhận hiện vật hay tiền mặt bà đều nhất trí nhưng nếu nhận tiền mặt thì yêu cầu thực hiện ngay; còn ông Đ xin được hưởng bằng hiện vật nhưng ông không có tiền mặt để trả chênh lệch cho bà T .” Hội đồng xét xử đưa ra phán quyết: giao toàn bộ nhà và đất cho bà T sử dụng, bà T có trách nhiệm thanh toán cho ông Đ ½ giá trị nhà và đất bằng tiền mặt. Tuy nhiên, Tòa án sẽ quyết định cho ông Đ được lưu cư trên nhà, đất đến khi bà T trả tiền xong cho ông Đ. Về quyền lưu cư, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định như sau: Điều 63. Quyền lưu cư của vợ hoặc chồng khi ly hôn "Nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng đã đưa vào sử dụng chung thì khi ly hôn vẫn thuộc sở hữu riêng của người đó; trường hợp vợ hoặc chồng có khó khăn về chỗ ở thì được quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm dứt, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác". Sau khi ly hôn, nếu bên không được sở hữu nhà chưa thu xếp được chỗ ở khác thì tòa án sẽ ấn định thời gian cho người đang ở nơi đó được quyền lưu lại một thời gian nhất định. Theo quy định tại Điều 63 Luật Hôn nhân và gia đình, thì khoảng thời gian này là tối đa 06 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm dứt, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Tuy nhiên, theo nội dung bản án nêu trên ta có thể thấy rằng, Hội đồng xét xử quyết định cho ông Đ được lưu cư trên nhà, đất đến khi bà T trả tiền xong cho ông Đ. Nếu thời gian bà T trả tiền xong cho ông Đ là nhiều hơn 6 tháng, vậy ông Đ có thể lưu cư trên căn nhà nhiều hơn 6 tháng? Còn trường hợp bà T có thể trả tiền ngay cho ông Đ, mặc dù chưa hết 6 tháng nhưng ông Đ sẽ không được tiếp tục lưu cư? Việc này có vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình? Thiết nghĩ rằng, Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương và Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương nên đưa ra nhận định cụ thể hơn về khoảng thời gian lưu cư của ông Đ là bao nhiêu tháng để đảm bảo được quyền lợi của ông Đ và bà T. Như vậy, có thể thấy rằng, trong trường hợp vợ hoặc chồng có khó khăn về chỗ ở thì được quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm dứt, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Việc lưu cư này cần được Tòa án ghi một khoảng thời gian cụ thể để đảm bảo quyền lợi của hai bên đương sự. Tránh trường hợp khi một bên đã thực hiện xong việc hoàn tiền chênh lệch nhưng bên được nhận tiền vẫn còn gặp khó khăn chưa tìm chỗ ở mới, được lưu cư quá ít hoặc trường hợp người lưu cư quá lâu, ảnh hưởng tới quyền lợi bên được nhận nhà. 

Chi Tiết
01 Admin Post
Nguyễn Hoàng Sơn 2023-09-07
CĂN CỨ ĐỂ XÁC ĐỊNH MỨC CẤP DƯỠNG NUÔI CON KHI LY HÔN

Tranh chấp mức cấp dưỡng nuôi con là một trong những tranh chấp phổ biến khi mỗi cặp vợ chồng ly hôn. Thông thường bên được quyền nuôi con thì yêu cầu cấp dưỡng cao trong lúc bên không nuôi con thường trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng cũng như chỉ chấp nhận cấp dưỡng mức thấp. Vậy làm sao để xác định mức cấp dưỡng hợp lý? Điển hình tại Bản án 02/2018/HNGĐ-ST ngày 11/01/2018 về tranh chấp cấp dưỡng, theo đó: “Chị L, anh G đã ly hôn theo bản án số: 37/2014/HNGĐ-ST của Tòa án nhân dân huyện Cao Lãnh. Chị L là người trực tiếp nuôi con chung tên Trần Thùy Vân, sinh ngày: 15/11/2013. Khi ly hôn chị L không yêu cầu anh G cấp dưỡng nuôi con vì anh G đồng ý giao 6 chỉ vàng cưới cho chị L làm chi phí nuôi con, nhưng sau đó anh G và cha anh G đòi lấy lại số vàng cưới và chị L đã trả 03 chỉ vàng cho anh G. Từ khi ly hôn đến nay anh G không thăm con hay hỗ trợ bất kỳ chi phí nào để nuôi con. Do con chung đến tuổi chuẩn bị đi học, trong khi chị L là công nhân lương không đủ để nuôi con. Nay, chị L yêu cầu anh Trần Thanh G cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật. Anh G không đồng ý với lý do: Hiện nay, anh G có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, anh phải nuôi cha mẹ già bị bệnh; anh G là lao động phổ thông thu nhập khoảng 180.000 đồng đến 200.000 đồng/ngày, nhưng thu nhập không ổn định nên không có khả năng cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Anh G đồng ý cấp dưỡng nuôi con với mức cấp dưỡng 200.000 đồng/tháng". Hội đồng xét xử tuyên xử: - Chấp nhận yêu cầu của chị Huỳnh Thị Thúy L về việc yêu cầu anh Trần Thanh G cấp dưỡng nuôi con. - Buộc anh Trần Thanh G có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung hàng bằng ½ tháng lương cơ sở tương ứng với thời gian thi hành án, thời gian cấp dưỡng được tính từ tháng 01/2018 cho đến khi con chung tên Trần Thùy V trưởng thành đủ 18 tuổi. Đối chiếu với Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về cấp dưỡng như sau: Điều 110. Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con. Điều 116. Mức cấp dưỡng 1. Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. 2. Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Như vậy, đối với con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì khi cha, mẹ không sống chung với con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Tuy nhiên, mức cấp dưỡng cho mỗi trường hợp, mỗi hoàn cảnh là khác nhau phụ thuộc vào các yếu tố như: Nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng, khả năng kinh tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng.... Như vậy, để xác định mức cấp dưỡng khi các bên không thỏa thuận được thì tòa án sẽ dựa vào các yếu tố nêu trên để từ đó xem xét, xác định mức cấp dưỡng cụ thể phù hợp. Hoàn toàn không phải một bên muốn trốn tránh hay muốn yêu cầu mức cấp dưỡng như thế nào cũng được. 

Chi Tiết
01 Admin Post
Nguyễn Hoàng Sơn 2023-09-07
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHA, MẸ ĐỐI VỚI CON NUÔI SAU KHI LY HÔN

Khi ly hôn, các cặp vợ chồng không thể tránh khỏi tranh chấp về quyền và nghĩa vụ nuôi con, đặc biệt là đối với con nuôi bởi trong một số trường hợp bố mẹ nuôi đã tìm cách thoái thoát, từ bỏ quyền và nghĩa vụ vì mối quan hệ không hình thành dựa trên quan hệ huyết thống. Vậy Tòa án giải quyết vấn đề này như thế nào? Tại Bản án 03/2018/HNGĐ-ST ngày 23/01/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn có nội dung như sau: “ Bà Huỳnh Thị Minh T và ông Nguyễn Hữu Th chung sống với nhau có đăng ký kết hôn vào năm 2003 tại UBND thị trấn Ayun Pa, huyện Ayun Pa, tỉnh Gia Lai. Hiện hai vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2015 đến nay không còn quan tâm, chăm sóc đến nhau nữa nên nên bà T yêu cầu Toà án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Th. Bà và ông Th có 03 con chung là Nguyễn Thị N (sinh năm 1985), Nguyễn Hữu Ngh (sinh năm 1987), Nguyễn Huỳnh Minh X (sinh năm 2005). Ngoài ra bà T và ông Th còn có 01 con nuôi là cháu Nguyễn Huỳnh T sinh năm 2006. Sau khi ly hôn, bà T yêu cầu được nuôi hai con chung là cháu Ngh bị bệnh động kinh và cháu X. Cháu T là con nuôi của bà và ông Th đã được bà làm thủ tục cắt khẩu, chuyển trường gửi vào Trường cơ sở Mái Ấm Tình Mẹ ở Kênh 7B, huyện T, tỉnh K nên bà không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.” Tòa án nhân dân thị xã Ayun Pa, tỉnh Gia Lai đã quyết định: Giao cho bà Huỳnh Thị Minh T trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung là các cháu Nguyễn Hữu Ngh và cháu Nguyễn Huỳnh Minh X. Giao cho ông Nguyễn Hữu Th trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con nuôi là cháu Nguyễn Huỳnh T cho đến khi thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi. Về nguyên tắc, việc nuôi con nuôi phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người được nhận làm con nuôi và người nhận con nuôi, tự nguyện, bình đẳng, không phân biệt nam nữ, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Luật hôn nhân và gia đình 2014 đã quy định: Điều 68. Bảo vệ quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con 1.... 3. Giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi có các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con được quy định tại Luật này, Luật nuôi con nuôi, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan. Theo đó, việc nuôi, nhận con nuôi theo đúng quy định của pháp luật đã làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ và con nuôi. Như vậy, pháp luật không có sự phân biệt giữa con nuôi và con chung. Về quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ nuôi và con nuôi cũng không có sự khác biệt so với quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ với con. Kể từ thời điểm quan hệ nuôi con nuôi được xác lập thì giữa cha, mẹ nuôi và con nuôi có các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 78 của Luật hôn nhân và gia đình. Điều 78. Quyền, nghĩa vụ của cha nuôi, mẹ nuôi và con nuôi 1. Cha nuôi, mẹ nuôi, con nuôi có quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ, con được quy định trong Luật này kể từ thời điểm quan hệ nuôi con nuôi được xác lập theo quy định của Luật nuôi con nuôi. ... Việc cha, mẹ nuôi ly hôn không hiển nhiên làm mất đi quyền và nghĩa vụ đối với con nuôi nếu không thuộc các trường hợp làm chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quy định của Luật nuôi con nuôi 2010. Trong trường hợp chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quyết định của Tòa án thì quyền, nghĩa vụ của cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi chấm dứt kể từ ngày quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Sau khi ly hôn cha, mẹ có các quyền và nghĩa vụ phải trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình. Con nuôi cũng có quyền được bày tỏ nguyện vọng được sống chung với cha hoặc mẹ khi họ ly hôn và quyết định của Tòa án sẽ tôn trong nguyện vọng của con. Trường hợp cha, mẹ muốn từ bỏ trách nhiệm đối với con nuôi và đưa con nuôi vào các cơ sở xã hội là không phù hợp quy định của luật. Việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con con nuôi kết thúc khi chấm dứt việc nuôi con nuôi. Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn 1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan. 2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con. 3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con. Như vậy, sau khi ly hôn cha, mẹ vẫn phải đảm bảo các quyền và nghĩa vụ đối với con nuôi theo quy định của pháp luật và không có sự phân biệt đối xử giữa các con dù là con nuôi hay con ruột nhằm tạo một môi trường tốt nhất cho các con phát triển. 

Chi Tiết
01 Admin Post
Nguyễn Hoàng Sơn 2023-09-07
CÁC BẢN ÁN VỀ CHA ĐƯỢC NUÔI CON DƯỚI 36 THÁNG TUỔI KHI LY HÔN

1. Quy định pháp luật về quyền nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi ly hôn Quyền nuôi con là một trong những vấn đề được quan tâm khi ly hôn, tùy vào sự thỏa thuận, điều kiện kinh tế, khả năng chăm sóc của mỗi bên, Tòa án sẽ quyết định quyền nuôi con theo hướng có lợi nhất cho trẻ. Theo khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định: Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường họp người mẹ không đủ điều kỉện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha, mẹ có thỏa thuận khác phù họp với lợi ích của con. Theo đó, nguyên tắc con dưới 36 tháng tuổi do người mẹ nuôi dưỡng. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp đều như vậy, nếu người chồng chứng minh được khả năng đảm bảo tốt hơn về điều kiện vật chất và tinh thần cho con, chứng minh được người vợ không đủ khả năng để đảm bảo đời sống tốt cho con hoặc cha, mẹ có thỏa thuận khác thì Tòa án sẽ xem xét quyết định việc giao cho ai nuôi dưỡng trên cơ sở lợi ích của con.  Mới đây, TAND tối cao thông qua Án lệ 54/2022/AL về xác định quyền nuôi con dưới 36 tháng tuổi trong trường hợp người mẹ không trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con cũng có nội dung tương tự: “[3]Về nội dung: Về việc nuôi con chung: Quá trình giải quyết vụ án chị Phạm Thị Kiều K và anh Nguyễn Hũu P đều có nguyện vọng xin được nuôi cháu Nguyễn Đắc T, sinh ngày 30/11/2016. Khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”. Trong vụ án này, chỉ vì mâu thuẫn vợ chồng, chị Phạm Thị Kiều K tự ý về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, bỏ lại cháu T mới được 04 tháng tuổi cho anh Nguyễn Hữu P nuôi dưỡng. Tại các Biên bản xác minh cùng ngày 23/01/2018 (bút lục số 19, 20, 24), Ban tự quản thôn và Chi hội phụ nữ thôn H, xã E, huyện K xác nhận: “Anh Nguyễn Hữu P nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Nguyễn Đắc T rất tốt. Anh P có việc làm tại Công ty TNHH Thương mại và dịch vụ N, thu nhập ổn định, hoàn toàn đủ điều kiện để nuôi cháu T”. Mặc dù, khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định “Con dưới 36 tháng tuổi phải giao cho mẹ trực tiếp nuôi...”, nhưng chị K đã không nuôi cháu T từ khi cháu được 04 tháng tuổi. Hiện tại, cháu T đã quen với điều kiện, môi trường sống và được anh P nuôi dưỡng, chăm sóc đảm bảo trong điều kiện tốt nhất; nếu giao cháu T cho chị K nuôi dưỡng sẽ gây sự xáo trộn, ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của cháu. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét một cách toàn diện, tiếp tục giao cháu T cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc là có căn cứ. Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm giao cháu T cho chị K nuôi dưỡng là không phù hợp, chưa xem xét đầy đủ đến quyền và lợi ích hợp pháp về mọi mặt của cháu T” 2. Một số bản án người cha được nuôi con dưới 36 tháng tuổi Bản án 07/2020/HNGĐ-ST ngày 05/06/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con + Cấp xét xử: Sơ thẩm. + Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk. + Trích dẫn nội dung: "Xét thấy cháu Hoàng Văn Q hiện nay đang dưới 36 tháng tuổi, tuy nhiên từ tháng 6/2019 đến nay cháu Q đang do anh Ng trực tiếp nuôi dưỡng, trong thời gian anh chị sống ly thân thì anh Ng vẫn chăm sóc tốt mọi mặt cho con. Mặt khác, trong các buổi làm việc cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, chị Th đồng ý giao con cho anh Ng nuôi dưỡng và đồng ý cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Vì vậy cần giao con chung cho anh Ng trực tiếp nuôi dưỡng. Chị Th có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Về cấp dưỡng chấp nhận chị Th tự nguyện cấp dưỡng mỗi tháng 2.000.000 đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi là hoàn toàn có căn cứ và phù hợp với lợi ích của con." + Kết quả giải quyết: Chấp nhận tòan bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Bản án 15/2018/HNGĐ-PT ngày 04/05/2018 về tranh chấp ly hôn và nuôi con + Cấp xét xử: Phúc thẩm. + Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau. + Trích dẫn nội dung: "Xét thấy, anh D là người đã trực tiếp nuôi con từ ngày 08/10/2017 cho đến nay con anh chị đã được 25 tháng 3 ngày tuổi. Hiện tại, anh D đang gửi con học tại lớp S, Trường Mầm Non T tại Phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 10/2017 đến nay đã ổn định tâm lý và đang phát triển bình thường, có xác nhận của trường Mầm Non T Về điều kiện để nuôi con, anh D làm việc trong giờ hành chính với mức lương mỗi tháng 33.560.000 đồng, có xác nhận của Công ty vào ngày 19/4/2018, nên anh D có đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con." + Kết quả giải quyết: Sửa một phần bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm. Bản án 16/2017/HNGĐ-ST ngày 29/11/2017 về tranh chấp hôn nhân và gia đình + Cấp xét xử: Sơ thẩm. + Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng, tỉnh Long An. + Trích dẫn nội dung: "Việc chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng Nguyễn Lê Phương N, sinh ngày 09/09/2016 là có căn cứ theo khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình, bởi vì cháu N dưới 36 tháng tuổi, nhưng do chị T đã tự nguyện giao con cho anh P nuôi dưỡng vào ngày 14/03/2017 khi cháu N mới 06 tháng tuổi, anh P vẫn chăm sóc tốt cháu N cho đến nay. Mặt khác, hiện nay chị T đang trông trẻ con thuê cho chị ruột, chưa có nơi ở ổn định nên không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc con. Như vậy, cần giao cháu Nguyễn Lê Phương N cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng là có căn cứ theo Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình." + Kết quả giải quyết: Anh Nguyễn Văn P được tiếp tục nuôi dưỡng con chung Nguyễn Lê Phương N, sinh ngày 09/09/2016. Bản án 31/2017/HNGĐ-PT ngày 12/07/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con + Cấp xét xử: Phúc thẩm. + Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau. + Trích dẫn nội dung: "Tại phiên tòa phúc thẩm, chị C cũng như lời trình bày của Luật sư đều xác định đến thời điểm xét xử sơ thẩm thì cháu A chưa đủ 36 tháng tuổi, cháu A lại là nữ rất cần chị C nuôi dưỡng, chăm sóc. Xét kháng cáo của chị C, Hội đồng xét xử thấy rằng: Theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi”, như vậy tính đến thời điểm xét xử sơ thẩm (ngày 20/4/2017) thì cháu A chưa đủ 36 tháng tuổi, tuy nhiên tại phiên tòa, chị C và anh T đều thừa nhận từ khi sinh ra, cháu A sinh sống tại gia đình anh T, đồng thời khi chị C và anh T ly thân thì cháu A vẫn sinh sống tại gia đình anh T cho đến nay." + Kết quả giải quyết: Giữ nguyên bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Bản án 81/2019/HNGĐ-ST ngày 04/06/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con và chia tài sản + Cấp xét xử: Sơ thẩm. + Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau. + Trích dẫn nội dung: "Hội đồng xét xử xét thấy tính đến ngày xét xử sơ thẩm con của anh chị dưới 36 tháng tuổi. Tuy nhiên, cháu Hồ Thảo V hiện tại đang sống chung với anh Ng đã ổn định về đời sống và tâm lý. Mặt khác, chị O và anh Ng cũng thống nhất giao con là Hồ Thảo V cho anh Ng tiếp tục nuôi, chị O không cấp dưỡng nuôi con." + Kết quả giải quyết: Giao con là Hồ Thảo V sinh ngày 18 tháng 3 năm 2018 cho anh Hồ Thái Ng tiếp tục nuôi. Bản án 51/2018/HNGĐ-ST ngày 27/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con + Cấp xét xử: Sơ thẩm. + Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. + Trích dẫn nội dung: "Mặc dù cháu Đặng Ngọc A đến thời điểm Tòa án giải quyết thì chưa đủ 36 tháng tuổi, nhưng như đã phân tích ở trên thì việc giao cháu Ngọc A cho chị G trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng sẽ không đảm bảo cho sự phát triển bình thường của cháu Ngọc A, cụ thể cháu sẽ không có nơi ở ổn định, chị G cũng không có thu nhập để nuôi cả 04 con,... Trong khi từ lúc sinh ra cho đến nay, cháu Ngọc A đã ở với anh L, bản thân anh L đi làm có thu nhập khoảng 7.000.000 đồng/tháng, có mẹ là bà H hỗ trợ thêm trong việc chăm sóc cháu Ngọc A, đến thời điểm hiện tại thì cháu Ngọc A vẫn phát triển tốt nên việc thay đổi người nuôi con sẽ ảnh hưởng đến điều kiện nuôi dưỡng cũng như làm xáo trộn về mặt tâm sinh lý của cháu. Do đó cần tiếp tục giao cháu Đặng Ngọc A cho anh L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp với Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình." + Kết quả giải quyết: Giao con chung tên Đặng Ngọc A, sinh ngày 01/5/2016 cho anh Đặng Hoàng L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. 

Chi Tiết