01 Admin Post
Nguyễn Hoàng Sơn 2023-09-21
TỘI ĐE DOẠ GIẾT NGƯỜI THEO ĐIỀU 133 BỘ LUẬT HÌNH SỰ

1. Đe dọa giết người là gì? Đe dọa giết người có thể được hiểu là hành vi làm cho người khác lo sợ rằng người đe dọa sẽ có hành vi giết người. 2. Tội đe doạ giết người theo Điều 133 Bộ luật Hình sự Tại Điều 133 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tội đe doạ giết người như sau: - Người nào đe dọa giết người, nếu có căn cứ làm cho người bị đe dọa lo sợ rằng việc đe dọa này sẽ được thực hiện, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: + Đối với 02 người trở lên; + Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; + Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; + Đối với người dưới 16 tuổi; + Để che giấu hoặc trốn tránh việc bị xử lý về một tội phạm khác. 3. Quy định về việc áp dụng tội đe doạ giết người theo Điều 133 Bộ luật Hình sự Việc áp dụng tội đe doạ giết người có thể tham khảo tại Chương 2 Nghị quyết 04-HĐTPTANDTC/NQ ngày 29/11/1986 quy định như sau: - Tội đe doạ giết người phải có hai dấu hiệu bắt buộc có hành vi đe dọa giết người; có căn cứ làm cho người bị đe dọa lo sợ rằng việc đe dọa này sẽ được thực hiện. - Phải xác định hành vi đe dọa giết người là có thật (như: nói trực tiếp công khai là sẽ giết, giơ phương tiện như súng, dao đe dọa) và phải xem xét “căn cứ làm cho người bị đe dọa lo sợ…”, một cách khách quan, toàn diện như:  + Thời gian; + Hoàn cảnh; + Địa điểm diễn biến; + Nguyên nhân sâu xa (nếu có) và trực tiếp của sự việc; + Mối tương quan giữa bên đe dọa và bên bị đe dọa (về thể lực, tuổi đời, trình độ v.v…).  Nếu thông thường ai cũng phải lo lắng là sự đe dọa (về thể lực, tuổi đời, trình độ v.v…). Nếu thông thường ai cũng phải lo lắng là sự đe dọa sẽ được thực hiện, thì đó là trường hợp lo lắng có căn cứ. Nếu cùng với hành vi đe dọa, còn có hành vi chuẩn bị giết người bị đe dọa (như mài dao, lau súng đạn…) thì xử lý các hành vi đó về tội giết người (ở giai đoạn chuẩn bị). Nếu sau khi đe dọa đã giết người bị đe dọa, thì xử lý về tội giết người. Nếu đe dọa giết người để chống người thi hành công vụ, thì xử lý về tội chống người thi hành công vụ mà không áp dụng tội đe doạ giết người. 4. Cấu thành tội phạm của tội đe doạ giết người theo Điều 133 Bộ luật Hình sự * Về mặt khách quan của tội phạm: - Về hành vi: Người phạm tội đã thực hiện hành vi đe dọa giết người bị hại trái pháp luật. Hành vi đe dọa này có thể thực hiện bằng lời nói, hành động, cử chỉ... không nhằm mục đích giết người bị hại mà chỉ nhằm làm người bị hại phải lo lắng, sợ hãi, hình thành trong tư tưởng rằng người phạm tội sẽ thực hiện hành vi giết người bị hại như đã đe dọa. - Về mặt hậu quả: Gây nên tâm lý lo lắng, sợ hãi cho người bị hại; người bị hại thật sự tin rằng hành vi đe dọa sẽ được người phạm tội thực hiện. * Về mặt chủ quan của tội phạm: - Về lỗi: Người thực hiện hành vi do lỗi vô ý trực tiếp. Theo đó, người thực hiện hành vi phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là đe dọa người bị hại, làm cho người bị hại lo sợ có thể dẫn đến hậu quả như lời đe dọa, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả đó xảy ra; - Mục đích của hành vi phạm tội: Nhằm đe dọa người bị hại để người bị hại làm hoặc không làm một việc gì đó. * Khách thể của tội phạm: Tội phạm xâm phạm đến mối quan hệ liên quan đến quyền được sống của con người được pháp luật bảo vệ. * Chủ thể của tội phạm: - Người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự đầy đủ. 5. Đe dọa giết người trên mạng xã hội bị xử lý thế nào? Nếu hành vi đe dọa giết người trên mạng xã hội chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì có thể bị xử phạt hành chính theo điểm g khoản 3 Điều 102 Nghị định 15/2020/NĐ-CP quy định như sau: Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi cung cấp, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác. Lưu ý: Mức phạt trên áp dụng đối với tổ chức, nếu cá nhân có hành vi vi phạm tương tự thì mức phạt bằng ½. (Khoản 3 Điều 4 Nghị định 15/2020/NĐ-CP) 

Chi Tiết
01 Admin Post
Nguyễn Hoàng Sơn 2023-09-21
BẠO LỰC GIA ĐÌNH LÀ GÌ? HÀNH VI BẠO LỰC GIA ĐÌNH BỊ XỬ LÝ THẾ NÀO?

1. Bạo lực gia đình là gì? Theo khoản 2 Điều 1 Luật phòng, chống bạo lực gia đình 2007, bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình.  2. Thế nào là hành vi bạo lực gia đình? Điều 2 Luật phòng, chống bạo lực gia đình 2007 quy định các hành vi bạo lực gia đình bao gồm: - Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng; - Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm; - Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng; - Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau; - Cưỡng ép quan hệ tình dục; - Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; - Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình; - Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính; - Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở. Các hành vi bạo lực quy định nêu trên cũng được áp dụng đối với thành viên gia đình của vợ, chồng đã ly hôn hoặc nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng. Lưu ý: Các hành vi bạo lực gia đình nêu trên là hành vi bị nghiêm cấm theo khoản 1 Điều 8 Luật phòng, chống bạo lực gia đình 2007. Đồng thời, Điều 8 Luật phòng, chống bạo lực gia đình 2007 cũng nghiêm cấm các hành vi sau đây: - Cưỡng bức, kích động, xúi giục, giúp sức người khác thực hiện hành vi bạo lực gia đình. - Sử dụng, truyền bá thông tin, hình ảnh, âm thanh nhằm kích động bạo lực gia đình. - Trả thù, đe doạ trả thù người giúp đỡ nạn nhân bạo lực gia đình, người phát hiện, báo tin, ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình. - Cản trở việc phát hiện, khai báo và xử lý hành vi bạo lực gia đình. - Lợi dụng hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình để trục lợi hoặc thực hiện hoạt động trái pháp luật. - Dung túng, bao che, không xử lý, xử lý không đúng quy định của pháp luật đối với hành vi bạo lực gia đình. 3. Người có hành vi bạo lực gia đình bị xử lý thế nào? Căn cứ Điều 42 Luật phòng, chống bạo lực gia đình 2007 người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình bị xử lý như sau: - Người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị: + Xử lý vi phạm hành chính; + Xử lý kỷ luật; + Bị truy cứu trách nhiệm hình sự;  Ngoài ra, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. - Cán bộ, công chức, viên chức, người thuộc lực lượng vũ trang nhân dân có hành vi bạo lực gia đình nếu bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định nêu trên thì bị thông báo cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền quản lý người đó để giáo dục. 3.1 Mức xử phạt hành chính người có hành vi bạo lực gia đình Theo Điều 52 Nghị định 144/2021/NĐ-CP, hành vi xâm hại sức khỏe thành viên gia đình bị xử phạt như sau: - Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi đánh đập gây thương tích cho thành viên gia đình. - Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây: + Sử dụng các công cụ, phương tiện hoặc các vật dụng khác gây thương tích cho thành viên gia đình; + Không kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu điều trị trong trường hợp nạn nhân cần được cấp cứu kịp thời hoặc không chăm sóc nạn nhân trong thời gian nạn nhân điều trị chấn thương do hành vi bạo lực gia đình, trừ trường hợp nạn nhân từ chối. - Biện pháp khắc phục hậu quả: + Buộc xin lỗi công khai khi nạn nhân có yêu cầu; + Buộc chi trả toàn bộ chi phí khám bệnh, chữa bệnh nếu có. Đồng thời, Điều 53 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định mức xử phạt hành chính hành vi hành hạ, ngược đãi thành viên gia đình như sau: - Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây: + Đối xử tồi tệ với thành viên gia đình như: bắt nhịn ăn, nhịn uống, bắt chịu rét, mặc rách, không cho hoặc hạn chế vệ sinh cá nhân; + Bỏ mặc không chăm sóc thành viên gia đình là người cao tuổi, yếu, khuyết tật, phụ nữ có thai, phụ nữ nuôi con nhỏ. - Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc xin lỗi công khai khi nạn nhân có yêu cầu. 3.2 Xử lý kỷ luật đối với Đảng viên có hành vi bạo lực gia đình Cụ thể, Điều 50 Quy định 69-QĐ/TW năm 2022, Đảng viên có hành vi vi phạm quy định về phòng, chống bạo lực gia đình bị xử lý kỷ luật theo quy định như sau: - Đảng viên vi phạm một trong các trường hợp sau gây hậu quả ít nghiêm trọng thì kỷ luật bằng hình thức khiển trách: + Sử dụng, truyền bá thông tin, hình ảnh, âm thanh, vật dụng kích động hoặc nhằm kích động bạo lực gia đình. + Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em ruột với nhau. + Thờ ơ, vô cảm hoặc ngăn cản việc phát hiện, khai báo và xử lý hành vi bạo lực gia đình. - Trường hợp đã bị kỷ luật theo quy định nêu trên mà tái phạm hoặc vi phạm lần đầu gây hậu quả nghiêm trọng hoặc vi phạm một trong các trường hợp sau thì kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo hoặc cách chức (nếu có chức vụ): + Chiếm đoạt, hủy hoại tài sản riêng của thành viên trong gia đình hoặc tài sản chung của gia đình. + Cưỡng ép thành viên trong gia đình lao động quá sức hoặc ép buộc đóng góp tài chính quá khả năng; kiểm soát thu nhập của thành viên trong gia đình nhằm tạo tình trạng lệ thuộc về tài chính. + Có hành vi buộc thành viên trong gia đình ra khỏi chỗ ở trái pháp luật. + Cưỡng bức, kích động, xúi giục, giúp sức người khác gây bạo lực gia đình. + Dung túng, bao che, không xử lý hoặc xử lý không đúng pháp luật đối với hành vi bạo lực gia đình. - Trường hợp vi phạm các quy định nêu trên gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc vi phạm một trong các trường hợp sau thì kỷ luật bằng hình thức khai trừ: + Trả thù, trù dập người phát hiện, báo tin, ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình. + Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc có hành vi khác xâm hại đến sức khỏe, tính mạng; lăng mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm; cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý đối với thành viên trong gia đình hoặc người có công nuôi dưỡng mình. 3.3 Truy cứu trách nhiệm hình sự người có hành vi bạo lực gia đình Người có hành vi bạo lực gia đình có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình (quy định tại Điều 185 Bộ luật Hình sự 2015), cụ thể: - Người nào đối xử tồi tệ hoặc có hành vi bạo lực xâm phạm thân thể ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: + Thường xuyên làm cho nạn nhân bị đau đớn về thể xác, tinh thần; + Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm: + Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu; + Đối với người khuyết tật nặng, khuyết tật đặc biệt nặng hoặc người mắc bệnh hiểm nghèo. Ngoài ra, trong trường hợp hành vi bạo lực gia đình dẫn đến đủ căn cứ cấu thành các tội khác trong Bộ luật Hình sự như: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác - Điều 134; Tội hành hạ người khác - Điều 140; trường hợp gây chết người còn có thể bị truy cứu về Tội giết người - Điều 123… thì người phạm tội sẽ bị xử lý tùy theo hành vi, mức độ phạm tội và hậu quả mà mình gây ra.  

Chi Tiết
01 Admin Post
Nguyễn Hoàng Sơn 2023-09-21
ĐIỀU KIỆN RA QUYẾT ĐỊNH TRUY NÃ

1. Ai là đối tượng bị truy nã? Theo Điều 2 Thông tư liên tịch 13/2012/TTLT-BCA-BTP-VKSNDTC-TANDTC quy định về những người thuộc đối tượng bị truy nã, cụ thể như sau: - Bị can, bị cáo bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu. - Người bị kết án trục xuất, người chấp hành án phạt trục xuất bỏ trốn. - Người bị kết án phạt tù bỏ trốn. - Người bị kết án tử hình bỏ trốn. - Người đang chấp hành án phạt tù, người được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, người được hoãn chấp hành án bỏ trốn. 2. Điều kiện ra quyết định truy nã Căn cứ theo quy định tại Điều 4 Thông tư liên tịch 13/2012/TTLT-BCA-BTP-VKSNDTC-TANDTC, cơ quan có thẩm quyền chỉ được ra quyết định truy nã khi có đủ các điều kiện sau đây: + Có đủ căn cứ xác định đối tượng quy định tại Điều 2 của Thông tư này đã bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu và đã tiến hành các biện pháp xác minh, truy bắt nhưng không có kết quả; + Đã xác định chính xác lý lịch, các đặc điểm để nhận dạng đối tượng bỏ trốn. Khi có đủ căn cứ xác định bị can, bị cáo bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu mà trước đó Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án đã ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam mà không bắt được thì Cơ quan điều tra tự mình hoặc theo yêu cầu của Viện kiểm sát, Tòa án ra quyết định truy nã Trường hợp chưa có lệnh bắt bị can; bị cáo để tạm giam thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án không ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam mà Cơ quan điều tra tự mình hoặc theo yêu cầu của Viện kiểm sát, Tòa án ra ngay quyết định truy nã. 3. Quy định về bắt người đang bị truy nã Theo quy định tại Điều 112 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bắt người đang bị truy nã được quy định như sau: - Đối với người đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay người bị bắt đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản tiếp nhận và giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền. - Khi bắt người đang bị truy nã thì người nào cũng có quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt. - Trường hợp Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an phát hiện bắt giữ, tiếp nhận người đang bị truy nã thì thu giữ, tạm giữ vũ khí, hung khí và bảo quản tài liệu, đồ vật có liên quan, lập biên bản bắt giữ người, lấy lời khai ban đầu; giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền. 4. Quy định về việc gửi, thông báo quyết định truy nã Căn cứ Điều 6 Thông tư liên tịch 13/2012/TTLT-BCA-BTP-VKSNDTC-TANDTC quy định về việc gửi, thông báo quyết định truy nã như sau: - Quyết định truy nã phải được gửi đến: + Công an xã, phường, thị trấn, Công an cấp huyện nơi đăng ký thường trú, tạm trú, nơi ở và quê quán của người bị truy nã; + Công an cấp tỉnh nơi người bị truy nã có khả năng lẩn trốn hoặc gửi đến tất cả Công an các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; + Cục Cảnh sát truy nã tội phạm Bộ Công an; Phòng Cảnh sát truy nã tội phạm Công an cấp tỉnh (nơi ra quyết định truy nã); + Cơ quan hồ sơ nghiệp vụ (nơi đăng ký hồ sơ nghiệp vụ); + Viện kiểm sát nhân dân có yêu cầu ra quyết định truy nã; Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp với Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã; Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh nơi có trại giam, trại tạm giam, Cơ quan thi hành án hình sự ra quyết định truy nã; + Tòa án nhân dân có yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã. - Quyết định truy nã được thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng để mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân biết, phát hiện, bắt giữ đối tượng bị truy nã. 

Chi Tiết
01 Admin Post
Nguyễn Hoàng Sơn 2023-09-21
TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ

1. Chấp hành án? Tội không chấp hành án là gì? Theo quy định tại khoản 1 điều 3 Luật thi hành án hình sự 2019 về người chấp hành án như sau: “Người chấp hành án là người bị kết án, phải chịu hình phạt theo bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật và đã có quyết định thi hành.” Như vậy có thể hiểu chấp hành án là việc người bị kết án phải chấp hành theo quyết định của bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Theo quy định tại Điều 380 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tội không chấp hành án như sau: “Người nào có điều kiện mà không chấp hành bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.” 2. Các yếu tố cấu thành tội không chấp hành án 2.1. Về Khách thể của tội phạm - Là hành vi xâm phạm đến hoạt động bình thường của các cơ quan tiến hành tố tụng, đồng thời xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và của người được thi hành án. - Đối tượng tác động của tội phạm này là các bản án và quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, gồm các bản án: Hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động, hành chính và các quyết định khác của Tòa án. 2.2. Về chủ thể của tội phạm - Là những người có nghĩa vụ trong việc chấp hành bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, như: bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác trong các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, các vụ án kinh tế, hành chính, lao động. 2.3. Về mặt khách quan của tội phạm - Là hành vi tuy có điều kiện nhưng không chấp hành án (không hành động), có thể hiểu là không làm một việc nhưng có nghĩa vụ phải làm và có thể làm được. Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. Như vậy, quá trình tiến hành tố tụng phải thu thập chứng cứ chứng minh việc người đó phải thi hành án. - Đối với tội Không chấp hành án, pháp luật quy định một dấu hiệu bắt buộc đó là “đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết” như: quyết định kê biên tài sản, niêm phong tài sản… hoặc đã bị xử lý hành chính về hành vi không chấp hành án. - Lưu ý, nếu hành vi không chấp hành án còn chống người thi hành công vụ hoặc gây thương tích, làm chết người hoặc gây mất trật tự trị an, xã hội… thì ngoài xử lý về tội Không chấp hành án có thể bị xử lý về các tội phạm khác. 2.4. Về mặt chủ quan của tội phạm - Do cố ý, điều này thể hiện ngay trong điều luật đó là đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật mà vẫn không chấp hành. Động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. 3. Khung hình phạt tội không chấp hành án Theo khoản 1, 2 và 3 điều 380, Bộ luật hình sự 2015 quy định tội không chấp hành án như sau: “1. Người nào có điều kiện mà không chấp hành bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm: a) Chống lại chấp hành viên hoặc người đang thi hành công vụ; b) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt; c) Tẩu tán tài sản. Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.” Theo đó mức hình phạt đối với tội này được chia thành hai khung, cụ thể như sau: - Khung một: phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm đối với hành vi có đầy đủ các dấu hiệu của mặt khách quan. - Khung hai: phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm: +  Chống lại chấp hành viên hoặc người đang thi hành công vụ; + Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt; +  Tầu tán tài sản. - Hình phạt bổ sung: ngoài việc phải chịu một trong các hình phạt chính nêu trên người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Như vậy, đối với tội không chấp hành án thì mức án cao nhất lên đến 05 năm. Ngoài ra, có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.  4. Một số bản án về tội không chấp hành án Bản án về tội không chấp hành án số 39/2019/HS-PT Bản án 04/2021/HS-PT ngày 09/03/2021 về tội không chấp hành án Bản án 288/2019/HSPT ngày 24/09/2019 về tội không chấp hành án. 

Chi Tiết
01 Admin Post
Nguyễn Hoàng Sơn 2023-09-21
MUA BÁN TRÁI PHÉP TÀI KHOẢN NGÂN HÀNG BỊ XỬ LÝ NHƯ THẾ NÀO?

1. Tài khoản ngân hàng là gì? Các loại tài khoản ngân hàng? Tài khoản ngân hàng là tài sản do Ngân hàng cung cấp cho khách hàng dưới dạng một dãy số nhằm mục đích gửi tiền vào để thực hiện các giao dịch tài chính với 2 mục đích chính là thanh toán và tiết kiệm. Mỗi cá nhân có thể có nhiều tài khoản ngân hàng. Hiện nay có hai loại tài khoản ngân hàng thông dụng được sử dụng nhiều là tài khoản thanh toán và tài khoản tiết kiệm. - Tài khoản thanh toán: Là tài khoản khách hàng dùng để gửi tiền vào, sau đó, mặc định ủy quyền quản lý cho ngân hàng hoặc yêu cầu ngân hàng thanh toán các hóa đơn dịch vụ, chuyển rút tiền… Thông thường, loại tài khoản nàyđược sử dụng để nhận lương, hoặc giao dịch kinh doanh…Tiền gửi trong tài khoản thanh toán nếu chưa sử dụng đều được ngân hàng trả lãi suất định kỳ. Trong đó, lãi suất được áp dụng là lãi suất của loại tiền gửi không kỳ hạn. - Tài khoản tiết kiệm: Là tài khoản mà khách hàng gửi tiền vào để đầu tư sinh lời. Tiền lời này khách hàng có thể nhận ngay khi gửi hoặc nhận định kỳ theo thỏa thuận. Tài khoản tiết kiệm có thể được chia ra nhiều hạn mức, và không giới hạn số lượng đăng ký mở. 2. Thế nào là mua bán trái phép tài khoản ngân hàng? Do nhu cầu sử dụng các loại hình thanh toán tín dụng của các tổ chức, cá nhân tăng lên dẫn đến hiện tượng trao đổi mua bán trái phép tài khoản ngân hàng để trục lợi diễn ra ngày càng nhiều. Hành vi mua bán trái phép tài khoản ngân hàng được biểu hiện ở việc các bên thu thập, thỏa thuận trao đổi thông tin với nhau, theo đó bên bán cung cấp thông tin số tài khoản mà mình có được thu được từ nhiều nguồn cho bên mua và được thanh toán bằng tiền hay hiện vật khác nhằm thu lợi bất chính hoặc các mục đích khác trái pháp luật. Hầu hết các đối tượng mua lại thông tin tài khoản ngân hàng của người khác để lợi dụng lòng tin thực hiện các hành vi lừa đảo hoặc chuyển tiền chiếm đoạt qua các tài khoản này. 3. Mức xử phạt hành vi mua bán trái phép tài khoản ngân hàng Mua bán trái phép tài khoản ngân hàng nhằm thu lợi bất chính được coi là hành vi vi phạm pháp luật. Do đó, luật pháp nước ta có những quy định cụ thể về xử phạt dành cho loại hành vi này. 3.1. Xử phạt vi phạm hành chính Khoản 5, khoản 6, khoản 10 Điều 26 Nghị định 88/2019/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng quy định: “5. Phạt tiền từ 40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây: a) Thuê, cho thuê, mượn, cho mượn tài khoản thanh toán, mua, bán thông tin tài khoản thanh toán với số lượng từ 01 tài khoản thanh toán đến dưới 10 tài khoản thanh toán mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự; b) Làm giả chứng từ thanh toán khi cung ứng, sử dụng dịch vụ thanh toán mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây: … b) Thuê, cho thuê, mượn, cho mượn tài khoản thanh toán, mua, bán thông tin tài khoản thanh toán với số lượng từ 10 tài khoản thanh toán trở lên mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự; … Biện pháp khắc phục hậu quả: a) Buộc nộp vào ngân sách nhà nước số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại khoản 1, khoản 4, khoản 5, khoản 6, khoản 7 và khoản 8 Điều này; …” Như vậy, hành vi liên quan đến giao dịch tài khoản ngân hàng như cho thuê, mượn, mua, bán,… mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ bị phạt tiền đến 100 triệu đồng, đồng thời nộp lại vào ngân sách nhà nước số lợi bất chính có được từ những hành vi này. 3.2. Truy cứu trách nhiệm hình sự Hành vi trao đổi, mua bán với số lượng từ 20 tài khoản đến dưới 50 tài khoản hoặc thu lợi bất chính từ 20.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Cụ thể Điều 291 Bộ luật Hình sự 2015 quy định: “Người nào thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng của người khác với số lượng từ 20 tài khoản đến dưới 50 tài khoản hoặc thu lợi bất chính từ 20.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.” Dấu hiệu cấu thành tội phạm: - Khách thể: xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân; trật tự quản lý nhà nước trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông và lĩnh vực tài chính ngân hàng. - Chủ thể: người từ đủ 16 tuổi trở lên, có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự - Mặt khách quan: có hành vi thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng của người khác. Mua bán, trao đổi với số lượng từ 20 tài khoản đến dưới 50 tài khoản hoặc thu lợi bất chính từ 20.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng - Mặt chủ quan: tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, nghĩa là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra. Khung hình phạt: - Khung cơ bản: phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. - Khung 2: phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm đối với một trong các trường hợp: + Thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng của người khác với số lượng từ 50 tài khoản đến dưới 200 tài khoản; + Có tổ chức; + Có tính chất chuyên nghiệp; + Thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; + Tái phạm nguy hiểm. - Khung 3: phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm đối với một trong các trường hợp: + Thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng của người khác với số lượng 200 tài khoản trở lên; + Thu lợi bất chính 200.000.000 đồng trở lên. - Hình phạt bổ sung: phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Như vậy, tùy vào tính chất và mức độ của hành vi, người nào mua bán trái phép tài khoản ngân hàng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với mức phạt tiền đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù đến 7 năm. 4. Một số bản án về tội Mua bán trái phép thông tin tài khoản ngân hàng Dưới đây là một số bản án về tội Mua bán trái phép thông tin tài khoản ngân hàng đã được xét xử trên thực tế, mời bạn cùng tham khảo thêm: Bản án về tội mua bán trái phép thông tin tài khoản ngân hàng của người khác số 52/2021/HS-ST Bản án về tội mua bán trái phép thông tin tài khoản ngân hàng số 02/2022/HS-ST. 

Chi Tiết
01 Admin Post
Nguyễn Hoàng Sơn 2023-09-13
THỦ ĐOẠN GIAN DỐI TRONG CẤU THÀNH TỘI “LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN” VÀ TỘI “CƯỚP GIẬT TÀI SẢN”

Thực tiễn áp dụngĐối với hành vi người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối với mục đích chiếm đoạt tài sản trong một số trường hợp còn tồn tại quan điểm khác nhau về việc định tội danh.Ví dụ 1: Nguyễn Văn A. đi vào cửa hàng mua bán điện thoại, trong lúc đang xem điện thoại, A. nói sẽ mua 01 chiếc điện thoại rồi nhờ chị B. là nhân viên bán hàng tư vấn và đưa cho A. xem điện thoại định mua. Sau khi cầm điện thoại trên tay, lợi dụng chị B. vừa quay mặt ra chỗ khác nên A. nhanh chóng cầm điện thoại bỏ chạy.Ví dụ 2: Qua tìm hiểu trên mạng, anh Trần H. biết đến địa chỉ bán hàng online của anh Phạm T. (anh T. bán điện thoại các loại). Với mục đích chiếm đoạt tài sản đem bán lấy tiền chi tiêu cá nhân, anh H. nói chuyện trao đổi với anh T. về việc mua điện thoại. Sau khi thống nhất giá cả, điện thoại sẽ mua, anh H. hẹn anh T. đến địa điểm tại thành phố S để giao dịch trả tiền và nhận điện thoại. Do không có tiền để trả cho anh T. nên H. đã nhờ T. chở đi xung quanh thành phố S. đến chỗ người thân mượn tiền mặt trả cho anh T. Trên đường đi, anh H. yêu cầu anh T. cho xem điện thoại để kiểm tra rồi yêu cầu dừng xe để vào nhà người thân mượn tiền. Sau khi anh T. dừng xe, H. nhanh chóng cầm điện thoại bỏ chạy.Trong hai ví dụ nêu trên, quan điểm thứ nhất cho rằng hành vi của các đối tượng dùng thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản cấu thành tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự. Quan điểm thứ hai cho rằng, hành vi của các đối tượng thỏa mãn yếu tố cấu thành tội "Cướp giật tài sản" theo quy định tại Điều 171 Bộ luật Hình sự.Mặc dù tồn tại quan điểm khác nhau, tuy nhiên, thực tiễn áp dụng các Cơ quan tiến hành tố tụng đều xét xử các hành vi trên về tội cướp giật tài sản là có căn cứ, bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, áp dụng đúng pháp luật. Bởi lẽ:Về tội "Cướp giật tài sản" (Điều 171 Bộ luật Hình sự)Điều 171 Bộ luật Hình sự về tội Cướp giật tài sản1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:a) Có tổ chức;b) Có tính chất chuyên nghiệp;…Xét về hành vi khách quan: Do điều luật không mô tả hành vi khách quan của tội "Cướp giật tài sản", căn cứ vào khái niệm và các yếu tố cấu thành tội "Cướp giật tài sản", qua tổng kết thực tiễn có thể xác định đặc trưng của tội "Cướp giật tài sản" là hành vi giật, tức là giằng mạnh lấy tài sản về mình một cách nhanh chóng (ngay tức khắc). Chính vì hành vi giật tài sản đã bao gồm bản chất của tội cướp giật nên nhà làm luật không mô tả hành vi khách quan của tội cướp giật trong điều luật.Thực tiễn xét xử tội "Cướp giật tài sản" thì hành vi khách quan của tội phạm này thể hiện rất đa dạng và phức tạp. Hành vi cướp giật tài sản thường biểu hiện dưới dạng lợi dụng sơ hở của người khác để giật lấy, giằng lấy tài sản đang trong sự quản lý của người khác rồi nhanh chóng tẩu thoát. Ví dụ: hành vi giật dây chuyền vàng, giật túi xách, điện thoại,… Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp người phạm tội sử dụng thủ đoạn xảo quyệt, gian dối để tiếp cận tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác, sau đó nhanh chóng thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản rồi bỏ trốn. Hành vi cướp giật tài sản dù thực hiện ở dạng thông thường hay phức tạp nhưng dấu hiệu thể hiện rõ nhất cấu thành loại tội phạm này để phân biệt với các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt khác đó là “hành vi thực hiện công khai, nhanh chóng, bất ngờ” làm cho người bị hại dù biết việc bị chiếm đoạt tài sản nhưng không kịp phản ứng.Về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" (Điều 174 Bộ luật Hình sự)Điều 174. Bộ luật Hình sự về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại.…Mặt khách quan của tội phạm: Hành vi khách quan của tội phạm này thể hiện ở hành vi gian dối và hành vi chiếm đoạt. Cụ thể là người phạm tội đã đưa ra những thông tin không đúng sự thật làm cho chủ sở hữu tài sản hoặc người quản lý tài sản do nhầm tưởng mà tự nguyện chuyển giao quyền sở hữu về tài sản hoặc chuyển giao quyền quản lý tài sản cho người phạm tội. Hơn nữa, trong tội lừa đảo, sau khi người phạm tội chiếm đoạt được tài sản một khoảng thời gian nhất định người quản lý tài sản mới phát hiện được là mình bị lừa đảo, người bị lừa đảo tự mình chuyển giao quyền quản lý tài sản hoặc chuyển giao quyền sở hữu về tài sản cho người thực hiện hành vi lừa đảo sau khi bị người phạm tội thực hiện hành vi gian dối (lừa đảo). Đây chính là dấu hiệu đặc trưng để phân biệt đối với tội "Cướp giật tài sản".Ví dụ điển hình về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản": Khi biết bà B. ở thành phố S tỉnh Đ. cho vay tiền chỉ cần thế chấp giấy tờ là chứng minh nhân dân, Anh C. có địa chỉ tại thành phố S đã làm giả CMND thế chấp vay tiền bà B. số tiền 100 triệu đồng. Sau khi lấy được tiền đã chuyển đi nơi khác sinh sống để trốn tránh hành vi lừa đảo của mình.Đối chiếu với ví dụ đưa ra, hoàn toàn không có căn cứ khi cho rằng các đối tượng phạm tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản".Vấn đề cần lưu ýNhư vậy, trong một số trường hợp đặc biệt, giữa tội cướp giật tài sản và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có điểm chung đó là người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối với mục đích nhằm chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, thủ đoạn gian dối trong tội "Lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản" là hành vi của người phạm tội làm cho bị hại tin tưởng là sự thật nên đã tự nguyện giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho người phạm tội có quyền sở hữu hoặc quyền quản lý tài sản.Thời điểm người bị hại biết bị lừa đảo là sau khi người phạm tội chiếm đoạt được tài sản một khoảng thời gian nhất định. Thủ đoạn gian dối trong tội "Cướp giật tài sản" cũng tương tự như tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản", nhưng không có sự việc người bị hại tin tưởng và tự nguyện giao tài sản mà người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối trước, sau đó lợi dụng sơ hở của bị hại để nhanh chóng chiếm đoạt tài sản. Người bị hại hoàn toàn nhận thức được việc bị chiếm đoạt tài sản trong thời điểm đó nhưng do hành vi chiếm đoạt của người phạm tội thực hiện quá nhanh nên họ không kịp phản ứng.Nguồn: Tạp chí Tòa án

Chi Tiết
01 Admin Post
Nguyễn Hoàng Sơn 2023-09-13
ĐỊNH TỘI ĐỐI VỚI HÀNH VI SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản trên không gian mạng, đặc biệt là mạng xã hội facebook đang diễn ra hết sức phức tạp về cách thức cũng như hành vi… Vấn đề định tội đối với hành vi này của các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực tiễn chưa có sự thống nhất. Từ việc phân tích, bình luận vụ án cụ thể, tác giả đưa ra quan điểm cá nhân để bạn đọc cùng trao đổi.Hai vụ án cụ thể về sử dụng mạng xã hội lừa đảo chiếm đoạt tài sảnVụ án thứ nhất: Từ tháng 6/2020, trên mạng xã hội, Hoàng Hữu A, sinh năm 1996, trú tại xã T, huyện P, tỉnh T sử dụng tài khoản facebook có tên “Quậy Harold”, vào các nhóm của cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống, lao động tại nước ngoài, gửi lời kết bạn đến các thành viên trong nhóm. Sau khi kết bạn, A vào trang cá nhân của họ tìm kiếm thông tin cá nhân (họ tên, ngày, tháng, năm sinh) để dò tìm mật khẩu. Khi tìm được mật khẩu, A thay đổi mật khẩu và chiếm đoạt quyền sử dụng các tài khoản facebook này, đồng thời vào danh sách bạn bè của họ, xem nội dung, lịch sử nhắn tin trong mục messenger để mạo danh nhắn tin đề nghị họ chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng của mình, với lý do cần tiền để giải quyết công việc, rồi chiếm đoạt. A đã chiếm đoạt được tài khoản facebook “Van H Nguyen” của anh Nguyễn Văn H, là người tỉnh B, đang làm việc tại Cộng hòa Liên bang Đức. A sử dụng tài khoản facebook này, mạo danh anh H, nhắn tin bằng ứng dụng messenger cho tài khoản “H Nước” của anh Lê Thanh H (sinh năm 1974, trú tại phường Đ, thành phố H) và tài khoản facebook “Nguyễn Thị D” của chị Nguyễn Thị D (sinh năm 1971, trú tại  huyện Q, tỉnh B), đề nghị anh H, chị D chuyển tiền, rồi chiếm đoạt. Tổng số tiền A chiếm đoạt là 109,5 triệu đồng, trong đó của anh Lê Thanh H là 72 triệu đồng, của chị Nguyễn Thị D là 37,5 triệu đồng.Hoàng Hữu A bị truy tố và xét xử về Tội sử dụng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, theo điểm đ khoản 2 Điều 290 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015.Vụ án thứ hai: Đầu năm 2020, Nguyễn Thế V sinh năm 1995, trú tại xã T, huyện P, tỉnh T đã truy cập vào website Weebly.com để tạo lập tài khoản và website giả có hình ảnh, tên miền là “binhchongionghatViet.Weebly.com”. Sau đó V lập tài khoản facebook, kết bạn với nhiều người, nhắn tin trò chuyện qua ứng dụng messenger và gửi đường link của website có nội dung bình chọn giọng hát Việt đến cho họ, đề nghị họ truy cập đường link để bình chọn cho người thân của mình. Khi có người bình chọn, đường link này sẽ dẫn đến một website giả do V tạo lập, có khung đăng nhập tài khoản facebook, khi họ nhập tên và mật khẩu để đăng nhập thì thông tin này sẽ được gửi đến tài khoản Weebly của V.Nguyễn Thế V khi có được thông tin liền cung cấp các tài khoản facebook này cho Lê Anh H (sinh năm 1995, trú tại xã L, huyện T, tỉnh Q) sử dụng để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của những người thân quen với những người có facebook bị chiếm đoạt. Cụ thể, khoảng 17 giờ ngày 23/3/2020, Nguyễn Thế V thông tin cho Lê Anh H về tài khoản facebook của anh Lê Văn Q (sinh năm 1990, quê quán huyện T, tỉnh Q, đang lao động tại Cộng hòa Ba Lan). Lê Anh H đã đăng nhập vào tài khoản facebook của anh Q, thay đổi mật khẩu và chiếm đoạt quyền sử dụng. H vào đọc nội dung tin nhắn của anh Q, tìm kiếm bạn bè có trong danh bạ, nhắn tin yêu cầu họ chuyển tiền để chiếm đoạt. Trong đêm 23 và 24/3/2020, H giả danh anh Q, nhắn tin với tài khoản facebook “Kim Thiên Tử” của anh Lê Văn T (sinh năm 1995, là em trai của anh Q, trú tại xã T, huyện B, tỉnh Q), đề nghị anh T chuyển tiền. Anh Lê Văn T tưởng đó là anh trai mình yêu cầu, nên đã chuyển tiền 3 lần vào tài khoản do H cung cấp, với tổng số tiền là 58 triệu đồng. H đã chiếm đoạt số tiền này.Sau khi chiếm đoạt được quyền sử dụng tài khoản facebook của anh Lê Văn Q, chiếm đoạt được số tiền 58 triệu đồng của anh Lê Văn T; Lê Anh H đã đưa tài khoản facebook của anh Lê Văn Q cho Đỗ Duy A (sinh năm 1998, trú tại xã L, huyện T, tỉnh Q). Đỗ Duy A vào mục danh sách bạn bè trong facebook của anh Lê Văn Q, tìm những người Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài, lấy thông tin cá nhân và hình ảnh trên trang công khai của họ, rồi tạo lập facebook giả có thông tin và hình ảnh giống với facebook thật của họ để nhắn tin nhằm lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Cụ thể, cuối tháng 3/2020, Đỗ Duy A sử dụng thông tin và hình ảnh của anh Nguyễn Tiến K (sinh năm 1991, trú tại thị xã Đ, tỉnh B) để tạo lập tài khoản facebook giả mạo giống với tài khoản facebook của anh K. Sau đó, Đỗ Duy A sử dụng tài khoản facebook giả, kết bạn với chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1990, trú tại thị xã B, tỉnh Q. Ngày 29/3/2020, A sử dụng facebook giả và giả danh anh K nhắn tin, đề nghị chị L chuyển số tiền 06 triệu đồng vào số tài khoản ngân hàng do A cung cấp nhằm mục đích chiếm đoạt. Chị L tưởng người thân của mình là anh K yêu cầu nên làm thủ tục chuyển tiền, nhưng đã kịp thời phát hiện mình bị lừa nên dừng giao dịch. Vì vậy A chưa chiếm đoạt được số tiền 06 triệu đồng của chị L.Nguyễn Thế V và Lê Anh H bị điều tra, truy tố và xét xử về Tội sử dụng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, theo điểm đ khoản 2 Điều 290 BLHS năm 2015; Đỗ Duy A bị điều tra, truy tố và xét xử về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, theo khoản 1 Điều 174 BLHS năm 2015.Vấn đề định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sảnVề việc điều tra, truy tố và xét xử đối với hai vụ án trên, tác giả có một số ý kiến trao đổi về định tội danh như sau:Thứ nhất, theo quy định tại Điều 290 BLHS năm 2015, hành vi chiếm đoạt tài sản bằng các công cụ phạm tội như sử dụng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet và thiết bị số thể hiện ở một số dạng sau:a) Sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ;b) Làm, tàng trữ, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả nhằm chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ;c) Truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản;d) Lừa đảo trong thương mại điện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc giao dịch chứng khoán qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản;đ) Thiết lập, cung cấp trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm chiếm đoạt tài sản.Do đó, nếu một hành vi thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm không trong các hành vi trên thì không thể truy tố, xét xử người đó về Tội sử dụng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản theo Điều 290 BLHS năm 2015 được.Trở lại hai vụ án trên, có thể thấy dấu hiệu thuộc hành vi khách quan của các bị can, bị cáo bị truy tố và xét xử về Tội sử dụng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, không thỏa mãn bất cứ hành vi nào trong năm loại hành vi khách quan nói trên. Cụ thể, hành vi tìm được, lấy được mật khẩu để chiếm đoạt tài khoản facebook của người khác, sau đó tiếp tục lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người thân quen của những người có tài khoản facebook bị chiếm đoạt không phải là hành vi được quy định tại các điểm a, c khoản 1 Điều 290 BLHS năm 2015.Thực chất ở đây có xảy ra sự đồng âm khác nghĩa đối với thuật ngữ “tài khoản”, dẫn đến có sự nhầm lẫn. Cụ thể, thuật ngữ “tài khoản” quy định tại Điều 290 BLHS năm 2015 là nói đến tài khoản về tiền được đăng ký ở các tổ chức tín dụng, nghĩa là khi xảy ra việc sử dụng thông tin về tài khoản, truy cập bất hợp pháp vào tài khoản là ngay sau đó có thể chiếm đoạt được tiền, tài sản; còn “tài khoản facebook” không liên quan gì đến tiền, tài sản. Việc chiếm đoạt được tài khoản facebook của người khác thực chất chỉ là việc có được mật khẩu facebook của họ, nên có được những thông tin và đăng được những thông tin trên đó (mà lẽ ra việc này chỉ có người lập ra facebook của mình mới thực hiện được); đồng thời, thay đổi mật khẩu để chính người đã lập ra facebook không vào được facebook của họ để xem và đăng thông tin trong đó. Như vậy, việc chiếm đoạt facebook không liên quan gì đến việc chiếm đoạt tiền, tài sản. Muốn chiếm đoạt được tài sản của người khác, người chiếm đoạt tài khoản facebook phải có thêm hành vi khác, đó là giả danh người chủ tài khoản facebook để liên hệ với bạn bè, người thân của họ, yêu cầu những người này chuyển tiền vào một tài khoản ngân hàng nào đó mà người đã chiếm đoạt tài khoản facebook đang quản lý để chiếm đoạt khi tiền được chuyển đến. Như vậy, hành vi chiếm đoạt tài khoản facebook, sau đó lừa những người thân quen của những người có tài khoản facebook bị chiếm đoạt để chiếm đoạt tài sản của họ cũng không phải là hành vi được quy định tại các điểm b, d, đ khoản 1 Điều 290 BLHS năm 2015.Do đó, việc truy tố, xét xử các bị can, bị cáo trong hai vụ án nói trên về Tội sử dụng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, theo Điều 290 BLHS năm 2015 là không thỏa đáng.Thứ hai, Điều 290 BLHS năm 2015 là điều luật được sửa đổi, bổ sung từ Điều 226b BLHS năm 1999. Trong thời gian Điều 226b có hiệu lực thi hành, có một vướng mắc khi định tội danh, đó là một hành vi khách quan thỏa mãn ít nhất một trong các dấu hiệu quy định tại các điểm a, b, c, d khoản 1 Điều 226b BLHS năm 1999, đồng thời hành vi này cũng thỏa mãn các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm của Tội trộm cắp tài sản (Điều 138 BLHS năm 1999), hoặc Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139 BLHS năm 1999). Để tháo gỡ vướng mắc này, BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung Điều 226b thành Điều 290 như sau: “1. Người nào sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử thực hiện một trong những hành vi sau đây, nếu không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 173 và Điều 174 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) …”Theo quy định trên, nếu người thực hiện hành vi vừa thỏa mãn các dấu hiệu tại Điều 173 hoặc Điều 174 BLHS năm 2015, vừa thỏa mãn dấu hiệu tại ít nhất một trong các điểm a, b, c, d, đ khoản 1 Điều 290 BLHS năm 2015, thì phải truy tố, xét xử người này về Tội trộm cắp tài sản hoặc về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 173, Điều 174 BLHS năm 2015).Về hai vụ án nói trên, rõ ràng hành vi của các bị can, bị cáo hoàn toàn thỏa mãn các dấu hiệu của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cụ thể là người phạm tội đã có hành vi gian dối, làm cho bị hại tưởng giả là thật để chuyển giao tài sản của mình cho các bị can, bị cáo và các bị can, bị cáo đã chiếm đoạt tài sản khi được chuyển giao. Hành vi này như đã phân tích ở phần trước không phải là một trong các hành vi quy định tại các điểm a, b, c, d, đ khoản 1 Điều 290 BLHS năm 2015. Do đó, theo tác giả, phải điều tra, truy tố, xét xử các bị can, bị cáo về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 BLHS năm 2015. Mặt khác, trong trường hợp chưa có sự thống nhất về hiểu thuật ngữ “tài khoản”, thì vẫn phải truy tố, xét xử các bị can, bị cáo theo Điều 174 BLHS năm 2015 về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, vì các hành vi trên thỏa mãn các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Khi đã thỏa mãn các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì phải ưu tiên áp dụng tội danh này. Thực tiễn xét xử trước ngày 01/01/2010 (là ngày Điều 226b BLHS năm 1999 có hiệu lực pháp luật), các hành vi như hai vụ án nêu trên đều được điều tra, truy tố và xét xử về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Việc điều tra, truy tố và xét xử như vậy là hoàn toàn chính xác.Thứ ba, ở vụ án thứ hai, Lê Anh H sau khi được Nguyễn Thế V cung cấp mật khẩu facebook của anh Lê Văn Q, đã đăng nhập vào tài khoản này, thay đổi mật khẩu để chiếm đoạt tài khoản; sau đó, lợi dụng biết được một số thông tin trong tài khoản facebook này để thực hiện hành vi lừa đảo, chiếm đoạt tiền của anh Lê Văn T. Còn Đỗ Duy A lợi dụng việc bạn bè của mình là Nguyễn Thế V và Lê Anh H chiếm đoạt được tài khoản facebook của anh Lê Văn Q, biết được thông tin trong đó, đã có hành vi sử dụng hình ảnh của anh Nguyễn Tiến K, lập một facebook giả giống với facebook do anh Nguyễn Tiến K lập trước đó, tự xưng là anh K để lừa chị Nguyễn Thị L, yêu cầu chị L chuyển tiền cho mình nhằm chiếm đoạt. Có thể thấy hai loại hành vi này tuy biểu hiện bên ngoài khác nhau, nhưng bản chất pháp lý là hoàn toàn giống nhau, đó là đều giả danh người khác trên môi trường mạng xã hội để yêu cầu một người thân quen nào đó của người mà người thực hiện hành vi phạm tội giả danh, chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng do họ quản lý để chiếm đoạt. Do đó, nếu điều tra, truy tố, xét xử loại hành vi này theo hai tội danh khác nhau là không thuyết phục, vì thực chất đây đều là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Với các phân tích trên, tác giả cho rằng việc định tội danh bị can, bị cáo ở hai vụ án nói trên theo tội danh quy định tại Điều 290 BLHS năm 2015 là chưa chính xác.

Chi Tiết
01 Admin Post
Nguyễn Hoàng Sơn 2023-09-13
KHI NÀO ÁP DỤNG BIỆN PHÁP ĐIỀU TRA TỐ TỤNG ĐẶC BIỆT TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ?

1. Khi nào áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt trong vụ án hình sự?Theo quy định tại Điều 224 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 có thể áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt đối với các trường hợp sau:- Tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tội phạm về tham nhũng, tội khủng bố, tội rửa tiền;- Tội phạm khác có tổ chức thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.* Các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệtTheo Điều 223 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định sau khi khởi tố vụ án, trong quá trình điều tra, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt sau:- Ghi âm, ghi hình bí mật;- Nghe điện thoại bí mật;- Thu thập bí mật dữ liệu điện tử.* Quy định về việc sử dụng thông tin, tài liệu thu thập được bằng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệtTheo Điều 227 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định sử dụng thông tin, tài liệu thu thập được bằng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt như sau:- Thông tin, tài liệu thu thập được bằng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt chỉ được sử dụng vào việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự; thông tin, tài liệu không liên quan đến vụ án phải tiêu hủy kịp thời.Lưu ý: Nghiêm cấm sử dụng thông tin, tài liệu, chứng cứ thu thập được vào mục đích khác.- Thông tin, tài liệu thu thập được bằng việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt có thể dùng làm chứng cứ để giải quyết vụ án.- CQĐT có trách nhiệm thông báo ngay kết quả việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt cho Viện trưởng VKS đã phê chuẩn.Như vậy, biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt có thể áp dụng đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia, ma túy, tham nhũng, khủng bố, rửa tiền và các tội phạm khác có tổ chức thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Các biện pháp này bao gồm ghi âm, ghi hình bí mật; nghe điện thoại bí mật; thu thập bí mật dữ liệu điện tử. Thông tin thu thập được chỉ được sử dụng cho mục đích điều tra, truy tố, xét xử vụ án và không được sử dụng vào mục đích khác.2. Thực hiện biện pháp điều tra tố tụng đặc biệtTheo Điều 26 Thông tư 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP quy định về việc thực hiện biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt như sau:- Quá trình thực hiện biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, Thủ trưởng CQĐT cấp tỉnh, Thủ trưởng CQĐT quân sự cấp quân khu trở lên phải thường xuyên kiểm tra việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, thông báo thông tin, tài liệu thu thập được bằng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt cho Viện trưởng VKS cùng cấp và thống nhất việc sử dụng, xử lý đối với thông tin, tài liệu thu thập được theo quy định tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.- Trường hợp xét thấy cần gia hạn thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, thì trước khi hết thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt 10 ngày, Thủ trưởng CQĐT cấp tỉnh, Thủ trưởng CQĐT quân sự cấp quân khu trở lên phải có văn bản nêu rõ lý do kèm theo chứng cứ, tài liệu là căn cứ đề nghị Viện trưởng VKS cùng cấp xem xét, quyết định việc gia hạn.- Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị kèm theo chứng cứ, tài liệu của Thủ trưởng CQĐT cấp tỉnh, Thủ trưởng CQĐT quân sự cấp quân khu trở lên, Viện trưởng VKS cùng cấp phải ra quyết định gia hạn hoặc không gia hạn hoặc có văn bản yêu cầu Thủ trưởng CQĐT cấp tỉnh, Thủ trưởng CQĐT quân sự cấp quân khu trở lên bổ sung chứng cứ, tài liệu để xét gia hạn thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.Như vậy, Thủ trưởng CQĐT phải kiểm tra, thông báo và thống nhất với VKS về việc thu thập, sử dụng thông tin, tài liệu. Trường hợp xét thấy cần gia hạn, thì trước khi hết thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt 10 ngày, Thủ trưởng CQĐT phải có văn bản đề nghị VKS xem xét quyết định. Trong vòng 3 ngày kể từ khi nhận được đề nghị, VKS phải quyết định gia hạn, không gia hạn hoặc yêu cầu bổ sung tài liệu.3. Thẩm quyền, trách nhiệm quyết định và thi hành quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệtTheo Điều 225 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định thẩm quyền, trách nhiệm quyết định và thi hành quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt như sau:- Thủ trưởng CQĐT cấp tỉnh, Thủ trưởng CQĐT quân sự cấp quân khu trở lên tự mình hoặc theo yêu cầu của Viện trưởng VKS nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng VKS quân sự cấp quân khu có quyền ra quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Trường hợp vụ án do Cơ quan điều tra cấp huyện, Cơ quan điều tra quân sự khu vực thụ lý, điều tra thì Thủ trưởng CQĐT cấp huyện, Thủ trưởng CQĐT quân sự khu vực đề nghị Thủ trưởng CQĐT cấp tỉnh, Thủ trưởng CQĐT quân sự cấp quân khu xem xét, quyết định áp dụng.- Quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt ghi rõ thông tin cần thiết về đối tượng bị áp dụng, tên biện pháp được áp dụng, thời hạn, địa điểm áp dụng, cơ quan tiến hành biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.- Quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt phải được Viện trưởng VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Thủ trưởng CQĐT đã ra quyết định áp dụng có trách nhiệm kiểm tra chặt chẽ việc áp dụng biện pháp này, kịp thời đề nghị VKS hủy bỏ nếu xét thấy không còn cần thiết.Cơ quan chuyên trách trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân theo quy định của pháp luật có trách nhiệm thi hành quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.- Thủ trưởng CQĐT, Viện trưởng VKS có thẩm quyền và người thi hành quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt phải giữ bí mật.Ngoài ra, theo Điều 25 Thông tư 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP về hướng dẫn thi hành quyết định, phê chuẩn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt cụ thể:- Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt theo quy định tại Điều 223 và Điều 224 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Thủ trưởng CQĐT cấp tỉnh, Thủ trưởng CQĐT quân sự cấp quân khu trở lên phải có hồ sơ đề nghị Viện trưởng VKS cùng cấp phê chuẩn quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.- Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị của Thủ trưởng CQĐT cấp tỉnh, Thủ trưởng CQĐT quân sự cấp quân khu trở lên, Viện trưởng VKS cùng cấp phải ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn hoặc có văn bản yêu cầu Thủ trưởng CQĐT cấp tỉnh, Thủ trưởng CQĐT quân sự cấp quân khu trở lên bổ sung chứng cứ, tài liệu để xét phê chuẩn quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.Như vậy, Thủ trưởng CQĐT cấp tỉnh, cấp quân khu trở lên có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Đồng thời, Thủ tưởng CQĐT cấp huyện, cấp khu vực phải đề nghị cấp trên xem xét, quyết định áp dụng. Quyết định phải ghi rõ các thông tin về đối tượng, biện pháp, thời hạn, địa điểm, cơ quan thực hiện; phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Cơ quan có thẩm quyền thi hành quyết định và phải giữ bí mật. Thủ trưởng CQĐT, VKS có trách nhiệm kiểm tra, đề nghị hủy bỏ nếu không còn cần thiết.- Hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt gồm:+ Văn bản đề nghị xét phê chuẩn nêu rõ lý do, căn cứ áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt và các thông tin, tài liệu cần thiết thu thập khi áp dụng biện pháp này; + Quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt của Thủ trưởng CQĐT cấp tỉnh, Thủ trưởng CQĐT quân sự cấp quân khu trở lên theo quy định tại khoản 2 Điều 225 Bộ luật Tố tụng hình sự;+ Các tài liệu khác là căn cứ để Thủ trưởng CQĐT cấp tỉnh, Thủ trưởng CQĐT quân sự cấp quân khu trở lên đề nghị xét phê chuẩn.- Trường hợp vụ án do CQĐT cấp huyện, CQĐT quân sự khu vực thụ lý, điều tra mà thấy cần thiết và có căn cứ áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, thì Thủ trưởng CQĐT cấp huyện, Thủ trưởng CQĐT quân sự khu vực trao đổi với Viện trưởng VKS nhân dân cấp huyện, Viện trưởng VKS quân sự khu vực về căn cứ và biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt có thể áp dụng.+ Đồng thời, Thủ trưởng CQĐT cấp huyện, Thủ trưởng CQĐT quân sự khu vực có văn bản kèm theo hồ sơ đề nghị Thủ trưởng CQĐT cấp tỉnh, Thủ trưởng CQĐT quân sự cấp quân khu ra quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt của Thủ trưởng CQĐT cấp tỉnh, Thủ trưởng CQĐT quân sự cấp quân khu; thời hạn, trình tự, thủ tục đề nghị Viện trưởng VKS phê chuẩn thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 225 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.4. Thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệtTheo Điều 226 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt như sau:- Thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt không quá 02 tháng kể từ ngày Viện trưởng VKS phê chuẩn. Trường hợp phức tạp có thể gia hạn nhưng không quá thời hạn điều tra theo quy định Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.- Chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, nếu xét thấy cần gia hạn thì Thủ trưởng CQĐT đã ra quyết định áp dụng phải có văn bản đề nghị Viện trưởng VKS đã phê chuẩn xem xét, quyết định việc gia hạn.Như vậy, thời hạn tối đa áp dụng là 2 tháng kể từ khi VKS phê chuẩn. Trường hợp phức tạp có thể gia hạn nhưng không quá thời hạn điều tra theo quy định. 10 ngày trước khi hết hạn, nếu cần gia hạn thì Thủ trưởng CQĐT phải có văn bản đề nghị VKS xem xét quyết định việc gia hạn.5. Hủy bỏ việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt trong trường hợp nào?Theo Điều 228 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định về hủy bỏ việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt như sau:Viện trưởng VKS đã phê chuẩn quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt phải kịp thời hủy bỏ quyết định đó khi thuộc một trong các trường hợp:- Có đề nghị bằng văn bản của Thủ trưởng CQĐT có thẩm quyền;- Có vi phạm trong quá trình áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt;- Không cần thiết tiếp tục áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.Ngoài ra, theo Điều 27 Thông tư 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP hướng dẫn hủy bỏ, kết thúc việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt cụ thể:- Khi xét thấy không cần thiết tiếp tục áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, Thủ trưởng CQĐT cấp tỉnh, Thủ trưởng CQĐT quân sự cấp quân khu trở lên phải có văn bản đề nghị Viện trưởng VKS đã phê chuẩn ra quyết định hủy bỏ quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.- Khi thấy có căn cứ để hủy bỏ quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Viện trưởng VKS đã phê chuẩn ra quyết định hủy bỏ quyết định đó và gửi cho Thủ trưởng CQĐT đã ra quyết định trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định hủy bỏ để chuyển ngay quyết định đó đến cơ quan tiến hành biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt để kết thúc ngay việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Như vậy, VKS phải hủy bỏ quyết định áp dụng biện pháp tố tụng điều tra đặc biệt khi có đề nghị của CQĐT, có vi phạm trong quá trình áp dụng hoặc không còn cần thiết tiếp tục áp dụng nữa. VKS có thể tự ra quyết định hủy bỏ khi phát hiện vi phạm hoặc không cần thiết áp dụng biện pháp tố tụng điều tra đặc biệt và thông báo cho CQĐT trong 24h để kết thúc việc áp dụng.

Chi Tiết