Lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản
trên không gian mạng, đặc biệt là mạng xã hội facebook đang diễn ra hết sức phức
tạp về cách thức cũng như hành vi… Vấn đề định tội đối với hành vi này của các
cơ quan tiến hành tố tụng trong thực tiễn chưa có sự thống nhất. Từ việc phân
tích, bình luận vụ án cụ thể, tác giả đưa ra quan điểm cá nhân để bạn đọc cùng
trao đổi.Hai vụ án cụ thể về sử
dụng mạng xã hội lừa đảo chiếm đoạt tài sảnVụ án thứ nhất: Từ tháng 6/2020, trên mạng xã hội, Hoàng Hữu
A, sinh năm 1996, trú tại xã T, huyện P, tỉnh T sử dụng tài khoản facebook có
tên “Quậy Harold”, vào các nhóm của cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống,
lao động tại nước ngoài, gửi lời kết bạn đến các thành viên trong nhóm. Sau khi
kết bạn, A vào trang cá nhân của họ tìm kiếm thông tin cá nhân (họ tên, ngày,
tháng, năm sinh) để dò tìm mật khẩu. Khi tìm được mật khẩu, A thay đổi mật khẩu
và chiếm đoạt quyền sử dụng các tài khoản facebook này, đồng thời vào danh sách
bạn bè của họ, xem nội dung, lịch sử nhắn tin trong mục messenger để mạo danh
nhắn tin đề nghị họ chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng của mình, với lý do cần
tiền để giải quyết công việc, rồi chiếm đoạt. A đã chiếm đoạt được tài khoản
facebook “Van H Nguyen” của anh Nguyễn Văn H, là người tỉnh B, đang làm việc
tại Cộng hòa Liên bang Đức. A sử dụng tài khoản facebook này, mạo danh anh H,
nhắn tin bằng ứng dụng messenger cho tài khoản “H Nước” của anh Lê Thanh H
(sinh năm 1974, trú tại phường Đ, thành phố H) và tài khoản facebook “Nguyễn
Thị D” của chị Nguyễn Thị D (sinh năm 1971, trú tại huyện Q, tỉnh B), đề
nghị anh H, chị D chuyển tiền, rồi chiếm đoạt. Tổng số tiền A chiếm đoạt là
109,5 triệu đồng, trong đó của anh Lê Thanh H là 72 triệu đồng, của chị Nguyễn
Thị D là 37,5 triệu đồng.Hoàng Hữu A bị truy tố và xét xử về Tội sử
dụng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm
đoạt tài sản, theo điểm đ khoản 2 Điều 290 Bộ luật Hình sự (BLHS)
năm 2015.Vụ án thứ hai: Đầu năm 2020,
Nguyễn Thế V sinh năm 1995, trú tại xã T, huyện P, tỉnh T đã truy cập vào
website Weebly.com để tạo lập tài khoản và website giả có hình ảnh, tên miền là
“binhchongionghatViet.Weebly.com”. Sau đó V lập tài khoản facebook, kết bạn với
nhiều người, nhắn tin trò chuyện qua ứng dụng messenger và gửi đường link của
website có nội dung bình chọn giọng hát Việt đến cho họ, đề nghị họ truy cập
đường link để bình chọn cho người thân của mình. Khi có người bình chọn, đường
link này sẽ dẫn đến một website giả do V tạo lập, có khung đăng nhập tài khoản
facebook, khi họ nhập tên và mật khẩu để đăng nhập thì thông tin này sẽ được
gửi đến tài khoản Weebly của V.Nguyễn Thế V
khi có được thông tin liền cung cấp các tài khoản facebook này cho Lê Anh H
(sinh năm 1995, trú tại xã L, huyện T, tỉnh Q) sử dụng để lừa đảo chiếm đoạt
tài sản của những người thân quen với những người có facebook bị chiếm đoạt. Cụ
thể, khoảng 17 giờ ngày 23/3/2020, Nguyễn Thế V thông tin cho Lê Anh H về tài
khoản facebook của anh Lê Văn Q (sinh năm 1990, quê quán huyện T, tỉnh Q, đang
lao động tại Cộng hòa Ba Lan). Lê Anh H đã đăng nhập vào tài khoản facebook của
anh Q, thay đổi mật khẩu và chiếm đoạt quyền sử dụng. H vào đọc nội dung tin
nhắn của anh Q, tìm kiếm bạn bè có trong danh bạ, nhắn tin yêu cầu họ chuyển
tiền để chiếm đoạt. Trong đêm 23 và 24/3/2020, H giả danh anh Q, nhắn tin với
tài khoản facebook “Kim Thiên Tử” của anh Lê Văn T (sinh năm 1995, là em trai
của anh Q, trú tại xã T, huyện B, tỉnh Q), đề nghị anh T chuyển tiền. Anh Lê
Văn T tưởng đó là anh trai mình yêu cầu, nên đã chuyển tiền 3 lần vào tài khoản
do H cung cấp, với tổng số tiền là 58 triệu đồng. H đã chiếm đoạt số tiền này.Sau khi chiếm
đoạt được quyền sử dụng tài khoản facebook của anh Lê Văn Q, chiếm đoạt được số
tiền 58 triệu đồng của anh Lê Văn T; Lê Anh H đã đưa tài khoản facebook của anh
Lê Văn Q cho Đỗ Duy A (sinh năm 1998, trú tại xã L, huyện T, tỉnh Q). Đỗ Duy A
vào mục danh sách bạn bè trong facebook của anh Lê Văn Q, tìm những người Việt
Nam đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài, lấy thông tin cá nhân và hình ảnh
trên trang công khai của họ, rồi tạo lập facebook giả có thông tin và hình ảnh
giống với facebook thật của họ để nhắn tin nhằm lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Cụ
thể, cuối tháng 3/2020, Đỗ Duy A sử dụng thông tin và hình ảnh của anh Nguyễn
Tiến K (sinh năm 1991, trú tại thị xã Đ, tỉnh B) để tạo lập tài khoản facebook
giả mạo giống với tài khoản facebook của anh K. Sau đó, Đỗ Duy A sử dụng tài
khoản facebook giả, kết bạn với chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1990, trú tại thị xã
B, tỉnh Q. Ngày 29/3/2020, A sử dụng facebook giả và giả danh anh K nhắn tin,
đề nghị chị L chuyển số tiền 06 triệu đồng vào số tài khoản ngân hàng do A cung
cấp nhằm mục đích chiếm đoạt. Chị L tưởng người thân của mình là anh K yêu cầu
nên làm thủ tục chuyển tiền, nhưng đã kịp thời phát hiện mình bị lừa nên dừng
giao dịch. Vì vậy A chưa chiếm đoạt được số tiền 06 triệu đồng của chị L.Nguyễn Thế V
và Lê Anh H bị điều tra, truy tố và xét xử về Tội sử dụng máy tính, mạng viễn
thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, theo điểm đ
khoản 2 Điều 290 BLHS năm 2015; Đỗ Duy A bị điều tra, truy tố và xét xử về Tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản, theo khoản 1 Điều 174 BLHS năm 2015.Vấn đề định tội danh tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sảnVề việc điều
tra, truy tố và xét xử đối với hai vụ án trên, tác giả có một số ý kiến trao
đổi về định tội danh như sau:Thứ nhất, theo
quy định tại Điều 290 BLHS năm 2015, hành vi chiếm đoạt tài sản bằng các công
cụ phạm tội như sử dụng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet và thiết bị số
thể hiện ở một số dạng sau:a) Sử dụng
thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân
để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa,
dịch vụ;b) Làm, tàng
trữ, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả nhằm chiếm đoạt tài sản của
chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ;c) Truy cập
bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chiếm
đoạt tài sản;d) Lừa đảo
trong thương mại điện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn,
kinh doanh đa cấp hoặc giao dịch chứng khoán qua mạng nhằm chiếm đoạt tài
sản;đ) Thiết lập,
cung cấp trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm chiếm đoạt tài sản.Do đó, nếu
một hành vi thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm không trong các hành vi
trên thì không thể truy tố, xét xử người đó về Tội sử dụng máy tính, mạng viễn
thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản theo Điều 290
BLHS năm 2015 được.Trở lại hai
vụ án trên, có thể thấy dấu hiệu thuộc hành vi khách quan của các bị can, bị
cáo bị truy tố và xét xử về Tội sử dụng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện
điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, không thỏa mãn bất cứ hành vi nào
trong năm loại hành vi khách quan nói trên. Cụ thể, hành vi tìm được, lấy được
mật khẩu để chiếm đoạt tài khoản facebook của người khác, sau đó tiếp tục lừa
đảo chiếm đoạt tài sản của người thân quen của những người có tài khoản
facebook bị chiếm đoạt không phải là hành vi được quy định tại các điểm a, c
khoản 1 Điều 290 BLHS năm 2015.Thực chất ở
đây có xảy ra sự đồng âm khác nghĩa đối với thuật ngữ “tài khoản”, dẫn đến có
sự nhầm lẫn. Cụ thể, thuật ngữ “tài khoản” quy định tại Điều 290 BLHS năm 2015
là nói đến tài khoản về tiền được đăng ký ở các tổ chức tín dụng, nghĩa là khi
xảy ra việc sử dụng thông tin về tài khoản, truy cập bất hợp pháp vào tài khoản
là ngay sau đó có thể chiếm đoạt được tiền, tài sản; còn “tài khoản facebook”
không liên quan gì đến tiền, tài sản. Việc chiếm đoạt được tài khoản facebook
của người khác thực chất chỉ là việc có được mật khẩu facebook của họ, nên có
được những thông tin và đăng được những thông tin trên đó (mà lẽ ra việc này
chỉ có người lập ra facebook của mình mới thực hiện được); đồng thời, thay đổi
mật khẩu để chính người đã lập ra facebook không vào được facebook của họ để
xem và đăng thông tin trong đó. Như vậy, việc chiếm đoạt facebook không liên
quan gì đến việc chiếm đoạt tiền, tài sản. Muốn chiếm đoạt được tài sản của
người khác, người chiếm đoạt tài khoản facebook phải có thêm hành vi khác, đó
là giả danh người chủ tài khoản facebook để liên hệ với bạn bè, người thân của
họ, yêu cầu những người này chuyển tiền vào một tài khoản ngân hàng nào đó mà
người đã chiếm đoạt tài khoản facebook đang quản lý để chiếm đoạt khi tiền được
chuyển đến. Như vậy, hành vi chiếm đoạt tài khoản facebook, sau đó lừa những
người thân quen của những người có tài khoản facebook bị chiếm đoạt để chiếm
đoạt tài sản của họ cũng không phải là hành vi được quy định tại các điểm b, d,
đ khoản 1 Điều 290 BLHS năm 2015.Do đó, việc
truy tố, xét xử các bị can, bị cáo trong hai vụ án nói trên về Tội sử dụng máy
tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài
sản, theo Điều 290 BLHS năm 2015 là không thỏa đáng.Thứ hai, Điều 290 BLHS năm 2015 là điều luật
được sửa đổi, bổ sung từ Điều 226b BLHS năm 1999. Trong thời gian Điều 226b có
hiệu lực thi hành, có một vướng mắc khi định tội danh, đó là một hành vi khách
quan thỏa mãn ít nhất một trong các dấu hiệu quy định tại các điểm a, b, c, d
khoản 1 Điều 226b BLHS năm 1999, đồng
thời hành vi này cũng thỏa mãn các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm của Tội
trộm cắp tài sản (Điều 138 BLHS năm 1999), hoặc Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
(Điều 139 BLHS năm 1999). Để tháo gỡ vướng mắc này, BLHS năm 2015 đã sửa đổi,
bổ sung Điều 226b thành Điều 290 như sau: “1.
Người nào sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử thực
hiện một trong những hành vi sau đây, nếu không thuộc một trong các trường hợp
quy định tại Điều 173 và Điều 174 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không
giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) …”Theo quy định
trên, nếu người thực hiện hành vi vừa thỏa mãn các dấu hiệu tại Điều 173 hoặc
Điều 174 BLHS năm 2015, vừa thỏa mãn dấu hiệu tại ít nhất một trong các điểm a,
b, c, d, đ khoản 1 Điều 290 BLHS năm 2015, thì phải truy tố, xét xử người này
về Tội trộm cắp tài sản hoặc về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 173, Điều
174 BLHS năm 2015).Về hai vụ án
nói trên, rõ ràng hành vi của các bị can, bị cáo hoàn toàn thỏa mãn các dấu
hiệu của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cụ thể là người phạm tội đã có hành vi
gian dối, làm cho bị hại tưởng giả là thật để chuyển giao tài sản của mình cho
các bị can, bị cáo và các bị can, bị cáo đã chiếm đoạt tài sản khi được chuyển
giao. Hành vi này như đã phân tích ở phần trước không phải là một trong các
hành vi quy định tại các điểm a, b, c, d, đ khoản 1 Điều 290 BLHS năm 2015. Do
đó, theo tác giả, phải điều tra, truy tố, xét xử các bị can, bị cáo về Tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 BLHS năm 2015. Mặt khác, trong trường hợp
chưa có sự thống nhất về hiểu thuật ngữ “tài khoản”, thì vẫn phải truy tố, xét
xử các bị can, bị cáo theo Điều 174 BLHS năm 2015 về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản, vì các hành vi trên thỏa mãn các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của Tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản. Khi đã thỏa mãn các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì phải ưu tiên áp dụng tội danh này. Thực tiễn
xét xử trước ngày 01/01/2010 (là ngày Điều 226b BLHS năm 1999 có hiệu lực pháp
luật), các hành vi như hai vụ án nêu trên đều được điều tra, truy tố và xét xử
về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Việc điều tra, truy tố và xét xử như vậy là
hoàn toàn chính xác.Thứ ba, ở vụ án thứ
hai, Lê Anh H sau khi được Nguyễn Thế V cung cấp mật khẩu facebook của anh Lê
Văn Q, đã đăng nhập vào tài khoản này, thay đổi mật khẩu để chiếm đoạt tài
khoản; sau đó, lợi dụng biết được một số thông tin trong tài khoản facebook này
để thực hiện hành vi lừa đảo, chiếm đoạt tiền của anh Lê Văn T. Còn Đỗ Duy A
lợi dụng việc bạn bè của mình là Nguyễn Thế V và Lê Anh H chiếm đoạt được tài
khoản facebook của anh Lê Văn Q, biết được thông tin trong đó, đã có hành vi sử
dụng hình ảnh của anh Nguyễn Tiến K, lập một facebook giả giống với facebook do
anh Nguyễn Tiến K lập trước đó, tự xưng là anh K để lừa chị Nguyễn Thị L, yêu
cầu chị L chuyển tiền cho mình nhằm chiếm đoạt. Có thể thấy hai loại hành vi
này tuy biểu hiện bên ngoài khác nhau, nhưng bản chất pháp lý là hoàn toàn
giống nhau, đó là đều giả danh người khác trên môi trường mạng xã hội để yêu
cầu một người thân quen nào đó của người mà người thực hiện hành vi phạm tội
giả danh, chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng do họ quản lý để chiếm đoạt. Do
đó, nếu điều tra, truy tố, xét xử loại hành vi này theo hai tội danh khác nhau
là không thuyết phục, vì thực chất đây đều là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài
sản.
Với các phân
tích trên, tác giả cho rằng việc định tội danh bị can, bị cáo ở hai vụ án nói
trên theo tội danh quy định tại Điều 290 BLHS năm 2015 là chưa chính xác.
Chi Tiết