LỢI DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN ĐỂ PHẠM TỘI CÓ BỊ COI LÀ TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRONG HÌNH SỰ KHÔNG?
1. Người có chức vụ là gì? Căn cứ tại Khoản 2 Điều 352 Bộ luật hình sự quy định về người có chức vụ, cụ thể như sau: “Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ.” Cụ thể hơn theo quy định của Khoản 2 Điều 3 Luật phòng chống tham nhũng 2018 quy định: “2. Người có chức vụ, quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do tuyển dụng, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó, bao gồm: a) Cán bộ, công chức, viên chức; b) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật, công nhân công an trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; c) Người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp; d) Người giữ chức danh, chức vụ quản lý trong doanh nghiệp, tổ chức; đ) Những người khác được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ và có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó.” 2. Tình tiết vụ lợi, lợi dụng chức vụ quyền hạn được pháp luật quy định như thế nào? Căn cứ theo khoản 6, 7 và khoản 8 Điều 3 Nghị quyết 03/2020/NQ-HĐTP quy định về một số tình tiết là dấu hiệu định tội như sau: - Lợi dụng chức vụ, quyền hạn được quy định tại khoản 1 Điều 356 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là dựa vào chức vụ, quyền hạn được giao để làm trái, không làm hoặc làm không đúng quy định của pháp luật. Ví dụ: Nguyễn Văn A là Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường huyện B đã thực hiện hành vi trái công vụ, trình lãnh đạo Ủy ban nhân dân huyện B ký quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với thửa đất không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai. - “Vụ lợi” quy định tại khoản 1 các điều 356, 357 và 359 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là trường hợp người phạm tội đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm quyền nhằm đạt được lợi ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất không chính đáng cho mình hoặc cho cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. - “Động cơ cá nhân khác” quy định tại khoản 1 các điều 356, 357 và 359 của Bộ luật Hình sự 2015 là trường hợp người phạm tội đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm quyền nhằm khẳng định, củng cố, nâng cao địa vị, uy tín, quyền lực của mình một cách không chính đáng. Theo đó, "lợi dụng chức vụ, quyền hạn” và "vụ lợi" là dấu hiệu định tội, cụ thể: "Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” là dựa vào chức vụ, quyền hạn được giao để làm trái, không làm hoặc làm không đúng quy định của pháp luật. "Vụ lợi” là trường hợp người phạm tội đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm quyền nhằm đạt được lợi ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất không chính đáng cho mình hoặc cho cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. 3. Xác định tình tiết lợi dụng chức vụ quyền hạn: Tình tiết ” lợi dụng chức vụ quyền hạn ” là tình tiết tăng nặng theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015. Tình tiết “lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội” là tình tiết thể hiện việc sử dụng chức vụ, quyền hạn như một thủ đoạn để người phạm tội thực hiện tội phạm. Trong phạm vi chức vụ, quyền hạn của mình, người phạm tội có được uy tín, sự ảnh hưởng đối với người khác, vì vậy họ đã lợi dụng Điều này để thực hiện tội phạm, gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân gây ảnh hưởng đến uy tín của người cán bộ, uy tín của Nhà nước. Do đó, trường hợp phạm tội này cần phải được tăng nặng trách nhiệm hình sự, mức độ tăng nặng phụ thuộc vào tầm quan trọng của chức vụ, quyền hạn và mức độ lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó của người phạm tội. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội là tội phạm xảy ra là do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện và hành vi phạm tội đó có liên quan trực tiếp đến chức vụ, quyền hạn của họ, nếu họ không có chức vụ, quyền hạn đó thì họ khó có thể thực hiện việc phạm tội; chức vụ, quyền hạn là Điều kiện thuận lợi để người phạm tội thực hiện tội phạm một cách dễ dàng. Tuy nhiên, người phạm tội có việc lợi dụng chức vụ để phạm tội thì mới bị coi là có tình tiết tăng nặng. Nếu tội phạm do họ thực hiện không liên quan gì đến chức vụ, quyền hạn của họ thì dù họ có chức vụ, quyền hạn thì cũng không bị coi là có tình tiết tăng nặng này. Tình tiết “lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội” chỉ được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự khi nó không phải là tình tiết định tội hoặc định khung hình phạt đã được quy định trong cấu thành cụ thể. Xác định tình tiết ” lợi dụng chức vụ quyền hạn ” để phạm tội của người phạm tội là một vấn đề quan trọng, có ý nghĩa trong việc xác định tội danh và truy cứu trách nhiệm hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng. Có thể nói, việc lợi dụng chức vụ để phạm tội là một tình tiết định khung tăng nặng đồng thời còn được xác định là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự vì nó đã làm tăng tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội. Đây là loại tội phạm dễ dàng gây hậu quả thiệt hại cho xã hội do những người có chức vụ thực hiện nên có Điều kiện để thực hiện tội phạm mà những người khác không thể thực hiện được. Mặt khác, việc thực hiện tội phạm của những người có chức vụ có thể gây ảnh hưởng xấu đến dư luận xã hội, làm giảm uy tín của nhà nước, của tổ chức… đối với các tầng lớp nhân dân, loại tội phạm này thông thường khó phát hiện, xử lý, tỷ lệ tội phạm ẩn là khá cao. Việc nghiên cứu và làm sáng tỏ những quy định của pháp luật hình sự có liên quan đến “lợi dụng chức vụ quyền hạn ” để phạm tội có một ý nghĩa quan trọng không chỉ về mặt nhận thức mà còn giúp các cơ quan tiến hành tố tụng có cơ sở pháp lý để phòng ngừa và đấu tranh với các hành vi phạm tội do người có chức vụ thực hiện. Trong khoa học Luật hình sự, việc thống kê các nhóm tội phạm, các loại tội phạm cụ thể có yếu tố lợi dụng chức vụ để phạm tội trong Bộ luật Hình sự là rất cần thiết cả về mặt lập pháp cũng như áp dụng pháp luật, tránh được những sai lầm trong việc xác định tội danh và quyết định hình phạt đối với người phạm tội. 4. Phân biệt tình tiết tăng nặng TNHS và tình tiết định khung hình phạt Trong quá trình quyết định hình phạt, cần phân biệt rõ tình tiết định tội, tình tiết định khung hình phạt với các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. - Tình tiết định tội là các tình tiết dùng để xác định một hành vi cụ thể nào đó có phạm vào một tội danh cụ thể được quy định trong luật hình sự không. Tình tiết định tội còn được gọi là tình tiết (dấu hiệu) cấu thành tội phạm cơ bản. - Tình tiết định khung hình phạt là tình tiết do quy định trong các khoản (có thể là giảm nhẹ hoặc tăng nặng) của điều luật cụ thể, dùng để xác định hành vi phạm tội có thuộc khung hình phạt tăng nặng hoặc khung hình phạt giảm nhẹ của một tội phạm. Tình tiết định khung hình phạt còn được gọi là tình tiết cấu thành tội phạm tăng nặng (khung tăng nặng) và cấu thành tội phạm giảm nhẹ (khung giảm nhẹ). Theo quy định tại khoản 2 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015, tình tiết đã được xác định là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt. Theo đó, khi áp dụng pháp luật, cần chú ý một tình tiết sau: - Phân biệt tình tiết “tổ chức” là tình tiết định tội với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội có tổ chức”. Tình tiết “tổ chức” là tình tiết định tội trong một số tội phạm như: Tội tổ chức tảo hôn (Điều 148), Tội tổ chức đánh bạc (Điều 249), Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý (Điều 197) Với các trường hợp trên, tình tiết “tổ chức” là hành vi tổ chức của một người cụ thể, không nhất thiết phải có hành vi đồng phạm hoặc nếu có thì cũng cần thiết phải có sự câu kết chặt chẽ giữa các đồng phạm. Còn tình tiết “phạm tội có tổ chức” là tình tiết thể hiện sự câu kết giữa những người đồng phạm trong việc cùng thực hiện tội phạm. - Phân biệt tình tiết “Đã bị kết án ... chưa được xoá án tích mà còn vi phạm” là tình tiết định tội với “tái phạm” hoặc “tái phạm nguy hiểm” là tình tiết định khung hình phạt tăng nặng hoặc tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Nếu cấu thành cơ bản, tình tiết định tội của tội phạm không yêu cầu tình tiết “đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm” thì việc người phạm tội đã từng bị kết án mới được coi là tái phạm nguy hiểm hoặc tái phạm là tình tiết định khung hình phạt hoặc tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Liên hệ với chúng tôi qua các kênh thông tin: CÔNG TY TNHH TƯ VẤN S&D LAWS Trụ sở chính: Số 31, ngõ 389 Trương Định, Quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội Website: sd-laws.com Email: congtytnhhsdl@gmail.com Hotline: 0903236618
Chi Tiết