01 Admin Post
Nguyễn Hoàng Sơn 2023-09-13
TỘI HIẾP DÂM THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ

1. Cấu thành tội hiếp dâmKhoản 1 Điều 141 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi tại khoản 23 Điều 1 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội hiếp dâm như sau:“Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.…”Theo đó, các đặc điểm cấu thành tội phạm như sau:- Chủ thể: Chủ thể của tội hiếp dâm là bất kỳ người nào từ đủ 14 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự.- Khách thể: Tội hiếp dâm là xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người.- Mặt khách quan:+ Về hành vi: Có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân.Để xác định tội hiếp dâm thì người phạm tội phải có hành vi giao cấu hoặc các hành vi quan hệ tình dục khác.Theo định nghĩa tại Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng quy định về các tội xâm hại tình dục trong Bộ luật Hình sự, thì:- Giao cấu là hành vi xâm nhập của bộ phận sinh dục nam vào bộ phận sinh dục nữ, với bất kỳ mức độ xâm nhập nào. Giao cấu với người dưới 10 tuổi được xác định là đã thực hiện không phụ thuộc vào việc đã xâm nhập hay chưa xâm nhập.- Hành vi quan hệ tình dục khác là hành vi của những người cùng giới tính hay khác giới tính, bao gồm đưa bộ phận sinh dục nam xâm nhập vào miệng, hậu môn của người khác; dùng ngón tay, ngón chân, lưỡi..., dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, hậu môn của người khác.- Lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân là lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân là việc người phạm tội lợi dụng tình trạng người bị hại bị tai nạn, bị ngất, bị trói, bị khuyết tật... dẫn đến không thể chống cự được; người bị hại bị say rượu, bia, thuốc ngủ, thuốc gây mê, thuốc kích thích, bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh khác... dẫn đến hạn chế hoặc mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi.- Thủ đoạn khác bao gồm các thủ đoạn như đầu độc nạn nhân; cho nạn nhân uống thuốc ngủ, thuốc gây mê, uống rượu, bia hoặc các chất kích thích mạnh khác làm nạn nhân lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành; hứa hẹn cho tốt nghiệp, cho đi học, đi thi đấu, đi biểu diễn ở nước ngoài để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác.- Mặt chủ quan: Tội hiếp dâm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. 2. Khung hình phạt tội hiếp dâm- Khung cơ bản: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm- Khung hai: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm khi phạm tội thuộc các trường hợp sau đây:+ Có tổ chức;+ Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;+ Nhiều người hiếp một người;+ Phạm tội 02 lần trở lên;+ Đối với 02 người trở lên;+ Có tính chất loạn luân;+ Làm nạn nhân có thai;+ Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;+ Tái phạm nguy hiểm.- Khung ba: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân khi phạm tội thuộc các trường hợp sau đây:+ Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;+ Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;+ Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.”.- Khung bốn: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm khi phạm tội đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.3. Phân biệt tội hiếp dâm và tội cưỡng dâmĐiểm giống nhau:- Tội Hiếp dâm, Cưỡng dâm đều là tội phạm thuộc nhóm các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, cụ thể ở đây là về xâm hại tình dục;- Cả 02 tội đều được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp.Điểm khác nhau:Tội Hiếp dâmTội Cưỡng dâmHành vi- Dùng vũ lực;- Đe dọa dùng vũ lực;- Lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân;- Thủ đoạn khácNhằm giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân.- Dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác.Nạn nhânNgười từ đủ 16 tuổi trở lên.Trường hợp nạn nhân là người dưới 16 tuổi sẽ cấu thành Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi quy định tại Điều 142 Bộ luật hình sựPhải là người từ đủ 16 tuổi trở lên và đang ở trong tình trạng quẫn bách hoặc lệ thuộc người phạm tội.- Trường hợp nạn nhân là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi và đang ở trong tình trạng quẫn bách hoặc lệ thuộc người phạm tội sẽ cấu thành Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi tại Điều 144 Bộ luật hình sự.- Trường hợp nạn nhân là người dưới 13 tuổi sẽ cấu thành tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi tại Điều 142 Bộ luật hình sự)Hình phạtThấp nhất là 02 năm tù, cao nhất là tù chung thân.Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.Thấp nhất là 01 năm tù, cao nhất là 18 năm tù.Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Chi Tiết
01 Admin Post
Nguyễn Hoàng Sơn 2023-09-13
TỘI THIẾU TRÁCH NHIỆM GÂY HẬU QUẢ NGHIÊM TRỌNG BỊ XỬ PHẠT NHƯ THẾ NÀO?

Theo Điều 360 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định:“1. Người nào có chức vụ, quyền hạn vì thiếu trách nhiệm mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 179, 308 và 376 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm:a) Làm chết người;b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:a) Làm chết 02 người;b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;c) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:a) Làm chết 03 người trở lên;b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;c) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”Theo đó, dấu hiệu của tội danh này như sau:- Khách thể: Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội.- Chủ thể: Người có chức vụ, quyền hạn- Mặt khách quan: Hành vi khách quan là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao. Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc để cấu thành tội phạm. Hành vi trên phải gây hậu quả nghiêm trọng đến sức khỏe, tính mạng của con người hoặc gây thiệt hại lớn về tài sản nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 179, 308 và 376 của BLHS.- Mặt chủ quan: Tội phạm được thực hiện với lỗi vô ý. Người phạm tội đáng lẽ phải thấy trước hậu quả do hành vi của mình mang lại nhưng không thấy trước được, hoặc đã thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.- Về hình phạt:+ Khung cơ bản: cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm quy định tại khoản 1 Điều 360 BLHS.+ Khung tăng nặng:Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm (khoản 2 Điều 360 BLHS)Phạt tù từ 07 năm đến 12 năm (khaonr 3 Điều 360 BLHS)- Hình phạt bổ sung: bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.Mời các bạn cùng tham khảo một vụ án về tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng đã được xét xử trên thực tế.Bản án về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng số 50/2021/HSPTNguyễn Lương T là Cán bộ quản giáo Nhà tạm giữ Công an thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa được phân công quản lý các can phạm ở buồng tạm giữ A1.3. Trần Mạnh Th được đưa vào Nhà Tạm giữ Công an thành phố Nha Trang vào ngày ngày 15/6/2019, có Giấy xác nhận khuyết tật tâm thần ở mức độ đặc biệt nặng. Sau khi vào buồng tạm giữ A1.3, TH có hành vi la hét, quậy phá không cho BI, PH ngủ nên BI đánh nhiều nhát vào vùng mặt của TH. Liên tục 3 ngày kể ừ ngày 15/6/2019 TH đều bị BI đánh, Nguyễn Lương T trực buồng tạm giữ A1.3 nhưng không tiến hành điểm danh, kiểm diện buồng, mỗi lần chia cơm chỉ đứng ở cửa, không vào bên trong buồng nên không phát hiện ra. Đến ngày 18/6, Bành Đinh Thanh HA nhìn thấy TH nằm dưới sàn nhà, miệng sùi nhiều bọt mép màu hồng nên báo cấp cứu, TH tử vong ngày sau đó.Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa nhận định: Nguyễn Lương T là cán bộ quản giáo được phân công trực và quản lý buồng tạm giữ A1.3. Từ ngày 15/6/2019 đến ngày 18/6/2019, với nhiệm vụ quản lý buồng AI.3 và trong ca trực của mình, Nguyễn Lương T đã thiếu trách nhiệm trong quản lý người bị tạm giữ, không nắm bắt tình hình và không nghiên cứu đầy đủ hồ sơ liên quan đến người bị tạm giữ, nên không phát hiện được Trần Mạnh TH là người có dấu hiệu mắc bệnh tâm thần để báo cáo lãnh đạo bố trí buồng tạm giữ riêng. Hàng ngày, không thực hiện việc điểm danh, kiểm diện, không kiểm tra, nắm bắt tình hình phạm nhân, để đối tượng Trần Trọng BI nhiều lần đánh Trần Mạnh TH nhưng không phát hiện để kịp thời ngăn chặn, dẫn đến Trần Mạnh TH tử vong.Hành vi của Nguyễn Lương T đã vi phạm quy định tại điểm c mục IV Điều 10 Quy chế làm việc số 01-QC/THAHS ngày 22/5/2017 của Đội Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp Công an thành phố Nha Trang; khoản 1, 2, 3, 4 Điều 3, khoản 2, 4, 9 Điều 5 Thông tư 22/TT-BCA ngày 16/6/2016 của Bộ Công an quy định về công tác quản giáo trong nhà tạm giữ, trại tạm giam; khoản 3, 6 Điều 8, khoản 1 Điều 9, điểm c khoản 1 Điều 13, điểm m khoản 1, điểm b khoản 4 Điều 18 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam. Do đó, tuyên bố bị cáo Nguyễn Lương T về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” theo điểm a khoản 1 Điều 360 Bộ luật Hình sự, xử phạt 06 (sáu) tháng tù.

Chi Tiết
01 Admin Post
Nguyễn Hoàng Sơn 2023-09-07
THẾ NÀO LÀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN. HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN

1. Nhận diện tội cướp tài sản theo quy định Bộ luật hình sự Tội cướp tài sản được quy định tại Điều 168 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017) là cá nhân có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản thì hành vi đó được xem là cướp tài sản. Để nhận diện tội cướp tài sản, cần xác định các yếu tố sau: - Khách thể: Hành vi cướp tài sản xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân. Ngoài ra, hành vi đó còn có thể xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của chủ tài sản, người quản lý tài sản hoặc người cản trở việc thực hiện hành vi tội phạm. - Chủ thể: Chủ thể của tội cướp tài sản theo Điều 168 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017) là bất kỳ người nào có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự: + Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật Hình sự có quy định khác. + Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu các khung hình phạt rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng của tội cướp tài sản. - Mặt khách quan: + Hành vi dùng vũ lực: Người phạm tội dùng sức mạnh vật chất để tấn công người chủ tài sản, người quản lý tài sản hoặc người cản trở việc chiếm đoạt tài sản của người phạm tội nhằm xóa bỏ sự phản kháng, lấn át của người cản trở để chiếm đoạt tài sản đó. + Hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc: Người phạm tội đe dọa dùng vũ lực ngay tại thời điểm phạm tội, được thể hiện bằng lời nói hoặc cử chỉ hành động đe dọa sẽ tấn công người chủ tài sản, người quản lý tài sản hoặc người cản trở nếu không đáp ứng yêu cầu hoặc có ý định ngăn cản hành vi chiếm đoạt tài sản của người phạm tội. + Có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự để chiếm đoạt tài sản: Người phạm tội dùng mọi cách thức, thủ đoạn đưa nạn nhân rơi vào tình trạng không còn khả năng quản lý được tài sản. - Mặt chủ quan: + Về mặt lỗi: Lỗi cố ý trực tiếp + Về động cơ phạm tội: Tư lợi cá nhân, mong muốn chiếm đoạt tài sản đó thể thu lợi từ giá trị tài sản mang lại. + Về mục đích phạm tội: Chiếm đoạt tài sản của người khác và ý định chiếm đoạt này phải được nảy sinh từ trước. 2. Khung hình phạt tội cướp tài sản theo quy định Bộ luật Hình sự Theo quy định tại Điều 168 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017) thì khung hình tội cướp tài sản như sau: Khung 1: Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. Khung 2: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: - Có tổ chức; - Có tính chất chuyên nghiệp; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%; - Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác; - Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; - Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ; - Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; - Tái phạm nguy hiểm. Khung 3: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm: - Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; - Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh. Khung 4: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân: - Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên; - Làm chết người; - Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp. Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Ngoài ra, người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. 3. Tội cướp tài sản và cướp giật tài sản khác nhau thế nào? Một số tiêu chí để phân biệt tội cướp tài sản và cướp giật tài sản như sau: Tiêu chí Tội cướp tài sản Tội cướp giật tài sản Hành vi - Dùng vũ lực: là việc người phạm tội dùng các hành động như đấm, đá, bóp cổ, đâm, chém… tác động vào cơ thể nạn nhân. Tuy nhiên, hậu quả của hành vi dùng vũ lực này có thể khiến cho nạn nhân bị thương tích, bị tổn hại sức khỏe hoặc bị chết ngoài ý muốn của người phạm tội. - Đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc: là hành vi dùng lời nói hoặc hành động nhằm đe dọa nạn nhân nếu không đáp ứng yêu cầu sẽ tấn công bằng vũ lực. Các hành vi khác là những hành vi không phải dùng vũ lực và đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc, như: dùng thuốc mê, ête, thuốc ngủ... làm cho nạn nhân lâm vào trạng thái hôn mê, không còn khả năng chống cự. - Có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản.   Lợi dụng sơ hở của người quản lý tài sản hoặc có thể tự mình tạo ra những sơ hở để thực hiện hành vi công khai chiếm đoạt tài sản đang rồi nhanh chóng tẩu thoát. Người phạm tội không dùng vũ lực, không đe dọa dùng vũ lực cũng không làm cho nạn nhân lâm vào tình trạng không thể chống cự. Khách thể - Quyền sở hữu tài sản; - Quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe. Quyền sở hữu tài sản; có thể có hoặc không xâm phạm quyền được bảo vệ tính mạng sức khỏe. 

Chi Tiết
01 Admin Post
Nguyễn Hoàng Sơn 2023-09-07
PHÂN BIỆT GIỮA TỘI GIẾT HOẶC VỨT BỎ CON MỚI ĐẺ VÀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Tiêu chí  Tội giết người (Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015) Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ (Điều 124 Bộ luật Hình sự 2015) Khái niệm Giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật. Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi hoặc vứt bỏ con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết Khách thể Đối tượng tác động - Xâm phạm tới tính mạng con người được Nhà nước bảo hộ - Con người đang sống - Xâm phạm tới tính mạng con người được Nhà nước bảo hộ - Con người đang sống Khách quan Hành  vi: Thực hiện các hành vi nhằm tước đoạt tính mạng của người khác trái pháp luật, được thể hiện qua hành vi dùng mọi thủ đoạn nhằm làm cho người khác chấm dứt sự sống. - Hành vi làm chết người được thực hiện bằng các hình thức sau: - Hành động: thể hiện qua việc người phạm tội đã cố tình thực hiện các hành vi mà pháp luật không cho phép nhằm tước đoạt mạng sống người khác. - Không hành động: thể hiện qua việc người phạm tội đã không thực hiện nghĩa vụ phải làm để cứu giúp người khác nhằm giết người. Thông thường tội phạm được thực hiện trong trường hợp bằng cách lợi dụng nghề nghiệp. Hậu quả: Tội giết người có cấu thành vật chất, nghĩa là đòi hỏi phải có hậu quả chết người xảy ra. Tuy nhiên, người phạm tội thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp mà hậu quả chết người xảy ra thì tội phạm hoàn thành; nếu hậu quả chết người chưa xảy ra thì vẫn cấu thành Tội giết người ở giai đoạn phạm tội chưa đạt. Hành vi: Hành vi khách quan là người mẹ thực hiện hành vi giết (bóp cổ, bỏ đói cho đến chết,…) hoặc hành vi vứt bỏ (bỏ vào rừng sâu không có ai qua lại, nhà hoang, thùng rác và đậy nắp,…) dẫn tới đứa trẻ không được ai phát hiện, cứu và bị chết                Hậu quả: Hậu quả của hành vi là đứa trẻ bị giết hoặc bị vứt bỏ dẫn đến chết. Chủ quan - Lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. +) Với lỗi cố ý trực tiếp: Người phạm tội thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra, nhưng vì mong muốn hậu quả đó xảy ra nên đã thực hiện hành vi phạm tội. +) Với lỗi cố ý gián tiếp: Người phạm tội nhận thức được hành vi của mình có thể gây nguy hiểm đến tính mạng của người khác, thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra, nhưng để đạt được mục đích của mình nên đã có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra (có ý thức chấp nhận hậu quả đó).  - Mục đích: +) Với lỗi cố ý trực tiếp: Mục đích là tước đoạt tính mạng +) Với lỗi cố ý gián tiếp: Không có mục đích là tước đoạt tính mạng. Người mẹ thực hiện hành vi giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ với lỗi cố ý (trực tiếp hoặc gián tiếp). Chủ thể - Chủ thể thường, đạt độ tuổi chịu TNHS và có năng lực TNHS +) Chủ thể của tội giết người là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nghĩa là khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội người đó có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện và có khả năng điều khiển được hành vi ấy. +) Phải đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự được chia như sau: + Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ các quy định khác. + Về tuổi: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các Điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304. (Điều 12 sửa đổi, bổ sung năm 2017). Như vậy, đối với tội giết người trong bộ luật hình sự 2015 thì chủ thể là người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi. - Chủ thể của tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ là chủ thể đặc biệt, đó là người mẹ của nạn nhân. Tuy nhiên, người mẹ của nạn nhân chỉ được coi là chủ thể của tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ nếu người mẹ đó chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà buộc phải giết hoặc vứt bỏ đứa con do mình đẻ ra. Nếu vì lý do khác mà người mẹ giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ thì sẽ không cấu thành tội phạm này. Ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu là chịu ảnh hưởng của những tư tưởng cũ đã lỗi thời, không còn phù hợp với quan niệm về cuộc sống, lối sống hiện tại. Hay nói một cách khác, những tư tưởng, những quan niệm sống này đã không còn phù hợp với ý thức xã hội đương thời. Có thể ví dụ như, cùng là một chuyện người phụ nữ không chồng mà có con, theo tư tưởng phong kiến, đây là trường hợp đại kỵ, bị dư luận xã hội lên án và sẽ phải chịu những hình phạt rất nặng. Tuy nhiên, trong chế độ xã hội mới, việc có con ngoài giá thú được pháp luật thừa nhận và bảo hộ nên người phụ nữ không còn bị lên án, chỉ trích và chịu phạt nặng nề như trong chế độ cũ nữa. Hình phạt 7 đến 15 năm tù 6 tháng đến 3 năm 3 tháng đến 2 năm 

Chi Tiết
01 Admin Post
Nguyễn Hoàng Sơn 2023-09-07
TỔNG HỢP VĂN BẢN HƯỚNG DẪN BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

Số hiệu văn bản Trích yếu nội dung Ngày ban hành/thông qua Ngày có hiệu lực Công văn 174/TANDTC-PC Công văn 174/TANDTC-PC về áp dụng Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 31/8/2023   Nghị quyết 03/2022/NQ-HĐTP Nghị quyết 03/2022/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 304, Điều 305, Điều 306, Điều 307, Điều 308 của Bộ luật Hình sự 09/9/2022 01/11/2022 Nghị quyết 01/2022/NQ-HĐTP Sửa đổi Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo 23/3/2022 10/5/2022 Nghị quyết 01/2021/NQ-HĐTP Hướng dẫn áp dụng Điều 201 của Bộ luật Hình sự và việc xét xử vụ án hình sự về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự 20/12/2021 24/12/2021 Nghị quyết 08/2021/NQ-UBTVQH15 Giải thích Khoản 1 Điều 289 của Bộ luật Hình sự 26/11/2021 14/01/2022 Công văn 1557/VKSTC-V1 Hướng dẫn nghiệp vụ áp dụng các Điều 347, 348 và 349 Bộ luật Hình sự 20/4/2021   Nghị quyết 03/2020/NQ-HĐTP Hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự trong xét xử tội phạm tham nhũng và tội phạm khác về chức vụ 30/12/2020 15/02/2021 Nghị quyết 07/2019/NQ-HĐTP Hướng dẫn áp dụng quy định tại Điều 299 và Điều 300 Bộ luật Hình sự 25/10/2019 01/12/2019 Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP Hướng dẫn áp dụng quy định tại các Điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của Bộ luật Hình sự và việc xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi 01/10/2019 05/11/2019 Nghị quyết 05/2019/NQ-HĐTP Hướng dẫn áp dụng Điều 214 về tội gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, Điều 215 về tội gian lận bảo hiểm y tế và Điều 216 về tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động của Bộ luật Hình sự 15/8/2019 01/9/2019 Nghị quyết 03/2019/NQ-HĐTP Hướng dẫn áp dụng Điều 324 của Bộ luật Hình sự về tội rửa tiền   24/5/2019 07/7/2019 Nghị quyết 02/2019/NQ-HĐTP Hướng dẫn áp dụng Điều 150 về tội mua bán người và Điều 151 về tội mua bán người dưới 16 tuổi của Bộ luật Hình sự   11/01/2019 15/3/2019 Nghị quyết 05/2018/NQ-HĐTP Hướng dẫn áp dụng Điều 234 về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã và Điều 244 về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm của Bộ luật Hình sự 05/11/2018 01/12/2018 Công văn 196/TANDTC-PC Về việc áp dụng điểm c khoản 2 Điều 321 và điểm c khoản 2 Điều 322 Bộ luật Hình sự 04/9/2018   Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP Hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự về án treo 15/5/2018 01/7/2018 Nghị quyết 01/2018/NQ-HĐTP Hướng dẫn áp dụng điều 66 và điều 106 của Bộ luật Hình sự về tha tù trước thời hạn có điều kiện 24/4/2018 09/9/2018 Nghị định 37/2018/NĐ-CP Hướng dẫn biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự 10/3/2018 10/3/2018 Nghị định 19/2018/NĐ-CP Quy định việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật Hình sự 02/02/2018 02/02/2018 Công văn 04/TANDTC-PC Về việc áp dụng Bộ luật Hình sự 2015 và Nghị quyết 41/2017/QH14 09/01/2018   Công văn 148/TANDTC-PC Về việc triển khai, thi hành Bộ luật Hình sự 2015 và Nghị quyết 41/2017/QH14 12/7/2017   Nghị quyết 41/2017/QH14 Về việc thi hành Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi tại Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 và về hiệu lực thi hành của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự 2015, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam 2015 20/6/2017 05/7/2017 Công văn 301/TANDTC-PC Về việc áp dụng quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật Hình sự 2015 07/10/2016   Công văn 276/TANDTC-PC Hướng dẫn áp dụng quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật Hình sự 2015 13/9/2016   Nghị quyết 01/2016/NQ-HĐTP Hướng dẫn áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự 2015 30/6/2016 01/8/2016 

Chi Tiết
01 Admin Post
Nguyễn Hoàng Sơn 2023-09-07
THỦ TỤC ĐĂNG KÝ BÀO CHỮA THẾ NÀO? BỊ CÁO TỰ BÀO CHỮA ĐƯỢC KHÔNG?

1. Người bào chữa là ai? Bị cáo tự bào chữa được không? Người bào chữa là ai? Theo quy định tại Điều 72 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 thì người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa. Bị cáo tự bào chữa được không? - Theo quy định tại Điều 61 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 thì bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này. - Theo quy định tại điểm g, khoản 2, Điều này thì bị cáo có quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 2 Điều này bị cáo còn có các quyền sau: +  Nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này; + Tham gia phiên tòa; +  Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này; + Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị triệu tập người làm chứng, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người giám định, người định giá tài sản, người tham gia tố tụng khác và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tham gia phiên tòa; + Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; + Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; + Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; + Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa; + Nói lời sau cùng trước khi nghị án; + Xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa; + Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án; + Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; + Các quyền khác theo quy định của pháp luật. - Đồng thời bị cáo có nghĩa vụ sau: + Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án.  + Trường hợp vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã; + Chấp hành quyết định, yêu cầu của Tòa án. Như vậy, bị cáo có quyền tự bào chữa cho mình, đồng thời có thể nhờ người bào chữa và các quyền khác như đã nêu trên nhằm đảm bảo quyền lợi cho bị cáo. 2. Thủ tục đăng ký bào chữa Thủ tục đăng ký bào chữa được quy định tại Điều 78 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 cụ thể: - Trong mọi trường hợp tham gia tố tụng, người bào chữa phải đăng ký bào chữa. - Khi đăng ký bào chữa, người bào chữa phải xuất trình các giấy tờ: + Luật sư xuất trình Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và giấy yêu cầu luật sư của người bị buộc tội hoặc của người đại diện, người thân thích của người bị buộc tội; + Người đại diện của người bị buộc tội xuất trình CMND hoặc thẻ CCCD kèm theo bản sao có chứng thực và giấy tờ có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền về mối quan hệ của họ với người bị buộc tội; + Bào chữa viên nhân dân xuất trình CMND hoặc thẻ CCCD kèm theo bản sao có chứng thực và văn bản cử bào chữa viên nhân dân của UBMTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận; + Trợ giúp viên pháp lý, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý xuất trình văn bản cử người thực hiện trợ giúp pháp lý của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và Thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực. - Trường hợp chỉ định người bào chữa quy định tại Điều 76 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 thì người bào chữa xuất trình các giấy tờ: + Luật sư xuất trình Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và văn bản cử luật sư của tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư đó hành nghề hoặc văn bản phân công của Đoàn luật sư đối với luật sư hành nghề là cá nhân; + Bào chữa viên nhân dân xuất trình CMND hoặc thẻ CCCD kèm theo bản sao có chứng thực và văn bản cử bào chữa viên nhân dân của UBMTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận; + Trợ giúp viên pháp lý, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý xuất trình Thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và văn bản cử người thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước. + Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 78 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kiểm tra giấy tờ và thấy không thuộc trường hợp từ chối việc đăng ký bào chữa quy định tại khoản 5 Điều 78 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 thì vào sổ đăng ký bào chữa, gửi ngay văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng ký bào chữa, cơ sở giam giữ và lưu giấy tờ liên quan đến việc đăng ký bào chữa vào hồ sơ vụ án; nếu xét thấy không đủ điều kiện thì từ chối việc đăng ký bào chữa và phải nêu rõ lý do bằng văn bản. Như vậy, thủ tục đăng ký bào chữa được thực hiện theo các bước sau: - Bước 1: Người bào chữa phải đăng ký bào chữa. - Bước 2: Khi đăng ký, người bào chữa phải xuất trình các giấy tờ tùy theo từng trường hợp cụ thể như Thẻ luật sư, CMND/CCCD, văn bản cử người thực hiện trợ giúp pháp lý của cơ quan có thẩm quyền... - Bước 3: Trong 24h kể từ khi nhận đủ giấy tờ, cơ quan tố tụng kiểm tra và chấp nhận đăng ký nếu đủ điều kiện, không thuộc trường hợp bị từ chối. - Bước 4: Nếu từ chối đăng ký, cơ quan tố tụng phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do. Thủ tục đăng ký bào chữa nhằm đảm bảo quyền bào chữa của người tham gia tố tụng. Ngoài ra, anh có thể tham khảo thêm hướng dẫn tại Điều 6 Thông tư 46/2019/TT-BCA về việc tiếp nhận, thực hiện thủ tục đăng ký bào chữa của cơ quan Công an. Mẫu sổ đăng ký bào chữa:Tải về 3. Cơ quan thẩm quyền tiến hành tố tụng từ chối hoặc hủy bỏ việc đăng ký bào chữa trong trường hợp nào? - Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng từ chối việc đăng ký bào chữa khi thuộc một trong các trường hợp: + Trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 72 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; + Người bị buộc tội thuộc trường hợp chỉ định người bào chữa từ chối người bào chữa. - Văn bản thông báo người bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tham gia tố tụng, trừ các trường hợp: +  Người bị buộc tội từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa; + Người đại diện hoặc người thân thích của người bị buộc tội quy định tại điểm b khoản 1 Điều 76 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa. - Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hủy bỏ việc đăng ký bào chữa và thông báo cho người bào chữa, cơ sở giam giữ khi thuộc một trong các trường hợp: + Khi phát hiện người bào chữa thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 72 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; + Vi phạm pháp luật khi tiến hành bào chữa. Như vậy, cơ quan tố tụng có quyền từ chối hoặc hủy đăng ký trong các trường hợp cụ thể theo quy định trên, đồng thời văn bản đăng ký bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tố tụng, trừ khi người bào chữa bị từ chối hoặc yêu cầu thay đổi. 

Chi Tiết
01 Admin Post
Nguyễn Hoàng Sơn 2023-09-07
GIA HẠN THỜI HẠN TẠM GIAM BỊ CAN THÊM 60 NGÀY CÓ ĐÚNG QUY ĐỊNH?

1. Bị can là gì? - Theo quy định tại Điều 60 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì bị can là: người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này. 2. Quy định pháp luật về tạm giam bị can 2.1 Người có quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can để tạm giam Theo quy định tại khoản 1 Điều 113 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về những người sau đây có quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can để tạm giam, như sau: - Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp (lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành). - Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp. - Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử. (*) Lệnh bắt, quyết định phê chuẩn lệnh, quyết định bắt phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị bắt; lý do bắt và các nội dung. (*) Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã. 2.2 Tạm giam Theo quy định tại Điều 119 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về tạm giam như sau: - Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng. - Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm. … Đồng thời, theo quy định tại Điều 173 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về thời hạn tạm giam để điều tra, như sau: - Thời hạn tạm giam bị can để điều tra: + Tội phạm ít nghiêm trọng: không quá 02 tháng; + Tội phạm nghiêm trọng: không quá 03 tháng; + Tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng: không quá 04 tháng. - Trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn tạm giam, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn tạm giam. (*)Việc gia hạn tạm giam được quy định như sau: … - Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 02 tháng; - Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 03 tháng; - Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, mỗi lần không quá 04 tháng. (*) Trong vụ án này bị can thuộc tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Đồng thời bị can lợi dụng sức ảnh hưởng gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm thuộc khung hình phạt tội phạm nghiêm trọng (khoản 2 Điều 9 Bộ luật Hình sự). Như vậy, đối với vụ án nghiệm trọng có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra thì việc Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra gia hạn thời hạn tạm giam của bị can thêm 60 ngày là phù hợp với quy định pháp luật tố tụng hình sự. Trong thời hạn 60 ngày này thì Tòa án sẽ có quyết định đưa vụ án ra xét xử và tiến hành mở phiên tòa để xét xử đối với các bị can trong vụ án. 3. Bản án tham khảo về tội danh trên - Bản án về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân số 46/2022/HS-PT - Bản án về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân số 94/2019/HS-PT - Bản án về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân số 88/2021/HS-ST - Bản án về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ, xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân số 510/2022/HS-PT - Bản án về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân số 81/2021/HS-ST. 

Chi Tiết
01 Admin Post
Nguyễn Hoàng Sơn 2023-09-07
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TẠM GIAM BỊ CAN, BỊ CÁO TRONG TRƯỜNG HỢP BỊ BỆNH NẶNG

Tạm giam là biện pháp có tính chất lựa chọn “có thể áp dụng” tức là không bắt buộc áp dụng đồng loạt cho mọi bị can, bị cáo khi đã có đủ căn cứ, điều kiện để áp dụng tạm giam. Tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo trong trường hợp do luật định. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 3 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam 2015 thì người bị tạm giam là người đang bị quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm giam, gia hạn tạm giam theo quy định của BLTTHS, bao gồm bị can bị cáo, người bị kết án phạt tù, người bị kết án tử hình mà bản án chưa có hiệu lực pháp luật hoặc đang chờ thi hành án, người bị tạm giam để thực hiện việc dẫn độ. Mục đích của tạm giam là nhằm ngăn chặn tội phạm và hành vi trốn tránh pháp luật của người phạm tội, để bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án được tiến hành đúng đắn. Quy định của pháp luật Theo quy định của pháp luật, việc bắt bị can bị cáo để tạm giam cần phải tuân thủ các thủ tục chặt chẽ. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng. Tạm giam cũng có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp được quy định tại Khoản 2 Điều 119 của BLTTHS 2015: a) Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm; b) Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can; c) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn; d) Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội; đ) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này. … 4. Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp: a) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã; b) Tiếp tục phạm tội; c) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này; d) Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia. Như vậy, theo quy định tại Khoản 4 Điều 119 của BLTTHS 2015 thì đối với trường hợp bị can, bị cáo đang bị bệnh nặng, có xác nhận của cơ sở y tế về tình trạng bệnh tật thì có thể yêu cầu cơ quan điều tra không áp dụng biện pháp tạm giam. Tuy nhiên, phải đảm bảo một số điều kiện như có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng, đồng thời không rơi vào các trường hợp: Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã; Tiếp tục phạm tội; Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này và không thuộc trường hợp phạm các tội về xâm phạm an ninh quốc gia. Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với những người bị tình nghi phạm tội, bị can bị cáo bằng biện pháp tạm giam là cần thiết nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm việc điều tra, truy tố, xét xử khách quan và đúng pháp luật. Tuy nhiên, đây không phải là biện pháp ngăn chặn bắt buộc áp dụng một cách đồng loạt, BLHS và BLTTHS cũng đã dự liệu những trường hợp cần xem xét không cần thiết phải tạm giam, hoặc áp dụng “bắt buộc chữa bệnh” khi bị can, bị cáo bị bệnh tâm thần, bệnh nặng hoặc hiểm nghèo khác. Theo quy định tại Điều 229 BLTTHS 2015, bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác có kết luận giám định tư pháp thì có thể tạm đình chỉ điều tra trước khi hết hạn điều tra… Tại Điều 49 của BLHS 2015, quy định: “(1). Đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh quy định tại Điều 21 của Bộ luật này, Viện kiểm sát hoặc Tòa án căn cứ vào kết luận giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh. (2). Đối với người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự nhưng trước khi bị kết án đã mắc bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì căn cứ vào kết luận giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần, Tòa án có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự”. Khoản 1 Điều 205 BLTTHS 2015 quy định: “Khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 206 của Bộ luật này hoặc khi xét thấy cần thiết thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra quyết định trưng cầu giám định”… Trên cơ sở kết quả giám định của tổ chức giám định pháp y- pháp y tâm thần, trong trường hợp có kết quả đây là thuộc trường bệnh nặng hoặc hiểm nghèo, các cơ quan tiến hành tố tụng cần xem xét ra quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can và vụ án theo quy định của BLTTHS. Bên cạnh đó, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam 2015 có quy định về chế độ chăm sóc y tế với người bị tạm giữ, tạm giam tại Điều 30 như sau: “(1). Người bị tạm giữ, người bị tạm giam được hưởng chế độ khám bệnh, chữa bệnh, phòng, chống dịch bệnh. Trường hợp bị ốm đau, bệnh tật, thương tích thì được khám và điều trị tại cơ sở y tế của cơ sở giam giữ; nếu bị bệnh nặng hoặc thương tích vượt quá khả năng của cơ sở giam giữ thì được chuyển đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cấp huyện, cấp tỉnh, bệnh viện quân đội hoặc bệnh viện trung ương khám, điều trị. Cơ sở giam giữ phải thông báo cho thân nhân hoặc đại diện hợp pháp của người đó biết để phối hợp chăm sóc, điều trị. Chế độ ăn, sử dụng thuốc, bồi dưỡng do cơ sở khám bệnh, chữa bệnh chỉ định. Người bị tạm giữ, người bị tạm giam được nhận thuốc chữa bệnh từ thân nhân và phải có đơn thuốc của thầy thuốc, chịu sự kiểm tra của cơ sở giam giữ. (2). Đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam có dấu hiệu mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì cơ sở giam giữ yêu cầu cơ quan đang thụ lý vụ án trưng cầu giám định pháp y tâm thần. Khi có quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh của cơ quan có thẩm quyền, cơ quan đang thụ lý vụ án phối hợp với cơ sở giam giữ đưa người bị tạm giữ, người bị tạm giam đến cơ sở chữa bệnh nêu trong quyết định. (3). Kinh phí khám bệnh, chữa bệnh, phòng, chống dịch bệnh cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam do ngân sách nhà nước bảo đảm theo quy định của Chính phủ. Trường hợp người bị tạm giữ, người bị tạm giam có chế độ bảo hiểm y tế thì được hưởng chế độ khám chữa bệnh theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế”. Bị can, bị cáo bị bệnh nặng Tuy nhiên, hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể về trường hợp người bị tình nghi, bị can bị cáo bị “bệnh nặng” để có thể được cơ quan có thẩm quyền quyết định không áp dụng biện pháp tạm giam mà thay thế bằng các biện pháp ngăn chặn khác, dẫn đến tình trạng áp dụng biện pháp ngăn chặn khác mà không phải là biện pháp tạm giam một cách tùy tiện hoặc có những trường hợp bị bệnh nặng đáng lẽ không áp dụng biện pháp tạm giam hoặc đình chỉ điều tra… thì lại áp dụng biện pháp tạm giam làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can bị cáo, điều này dẫn đến sự không thống nhất trong áp dụng pháp luật và gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Khi nghiên cứu quy định tại khoản 4 Điều 119 BLTTHS và trên thực tế có rất nhiều trường hợp mà trong vụ án bị can bị chết trong trại tạm giam vì trước đó đã bị bệnh nặng như vụ án bị can Phạm Tiến Dũng trong vụ án tham nhũng PMU 18 và vụ án tham ô tại dự án cầu Bãi Cháy cũng thuộc PMU 18 đã bị chết vì bị bệnh trong Trại tạm giam T.16 Bộ Công an trong khi Cơ quan điều tra vừa kết thúc việc điều tra bổ sung hay trong một số vụ án khác như “kỳ án” Đặng Nam Trung, bị can Nguyễn Lịch bị chết trong trại tạm giam vì bị bệnh tim; vụ án buôn lậu dây kéo YKK xảy ra ở Công ty Việt Hùng, bị cáo Lầu Lý Sáng và một người liên quan cũng bị chết trước khi phiên tòa sơ thẩm lần 2 được mở lại sau tiến trình tố tụng kéo dài gần 7 năm, bị cáo Trần Thị Giang trong vụ án tham ô tài sản xảy ra tại Công ty Prosimex, trước khi bị bắt tạm giam, đã bị bệnh hở van tim 2 lá, phải đại phẫu thuật nhưng vẫn bị tạm giam và điều tra lại gần 5 năm mới được tại ngoại… Nghiên cứu các quy định của BLHS, BLTTHS cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành thì có thể thấy, hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể thế nào là bị “bệnh nặng” áp dụng đối với trường hợp bị can, bị cáo đang bị tạm giam trong quá trình giải quyết vụ án, mà trường hợp bị bệnh nặng được hướng dẫn trong trường hợp hoãn chấp hành hình phạt tù. Theo quy định tại Điều 67 Bộ luật Hình sự năm 2015 và hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2007/NĐ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự, người bị xử phạt tù bị bệnh nặng có thể được hoãn chấp hành hình phạt tù cho đến khi sức khỏe được hồi phục. Theo đó, thì bị án có thể được hoãn trong trường hợp bị bệnh nặng tức là bị bệnh đến mức không thể đi chấp hành án phạt tù được và nếu bắt đi chấp hành hình phạt tù sẽ nguy hiểm đến tính mạng của họ, ví dụ: ung thư giai đoạn cuối, xơ gan cổ chướng, lao nặng độ 4 kháng thuốc, bại liệt, suy tim độ 3 trở lên, suy thận độ 4 trở lên, HIV chuyển giai đoạn AIDS đang có các nhiễm trùng cơ hội và có tiên lượng xấu… Tuy nhiên, quy định trên chỉ hướng dẫn áp dụng đối với trường hợp người bị kết án bị xử phạt tù có bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án còn đối với trường hợp bị can, bị cáo bị bệnh nặng thuộc trường hợp có thể được hủy bỏ, thay thế biện pháp tạm giam bằng các biện pháp ngăn chặn khác thì hiện nay vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể nào. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” nêu rõ cần đổi mới biện pháp tạm giam với ba nội dung quan trọng: 1) Xác định rõ căn cứ tạm giam; 2) Hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm; 3) Thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng biện pháp tạm giam”. Đây là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong việc tạm giam nhằm bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ gìn an ninh trật tự, gắn với việc bào vệ quyền con nguời, quyền công dân. Do vậy, để thống nhất trong thực tiễn áp dụng và đảm bảo quyền lợi của bị can, bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử cũng như bảo vệ quyền con người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp năm 2013. Thiết nghĩ, trong thời gian tới cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành hướng dẫn trong trường hợp trên.  

Chi Tiết