01 Admin Post
Nguyễn Hoàng Sơn 2023-09-07
GIAO KẾT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN

1. Hình thức của hợp đồng lao động trong công ty cổ phần Công ty cổ phần phải giao kết hợp đồng lao động bằng văn bản với từng người lao động làm việc cho mình, mỗi bên sẽ giữ 01 bản; Ngoài ra, công ty và người lao động cũng có thể giao kết hợp đồng lao động thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử. Hợp đồng lao động này có giá trị như hợp đồng lao động bằng văn bản. Trong trường hợp giao kết hợp đồng lao động có thời hạn dưới 01 tháng có thể giao kết hợp đồng bằng lời nói, NGOẠI TRỪ công việc theo mùa vụ, công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng; giao kết với người chưa đủ 15 tuổi và người đại diện theo pháp luật của người đó và hợp đồng lao động với người lao động là người giúp việc gia đình thì các bên phải giao kết hợp đồng lao động bằng văn bản. 2. Thẩm quyền giao kết hợp đồng lao động - Về phía công ty cổ phần: Người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần hoặc người được ủy quyền theo quy định của pháp luật; Trường hợp người đại diện theo pháp luật ủy quyền cho người khác thay mình ký hợp đồng lao động với người lao động thì phải lập Giấy ủy quyền giao kết hợp đồng lao động.  - Về phía người lao động: - Người lao động từ đủ 18 tuổi trở lên; - Người lao động từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi có sự đồng ý bằng văn bản của người đại diện theo pháp luật của người đó; - Người chưa đủ 15 tuổi và người đại diện theo pháp luật của người đó; - Người lao động được những người lao động trong nhóm ủy quyền hợp pháp giao kết hợp đồng lao động. Lưu ý: Người được ủy quyền giao kết hợp đồng lao động không được ủy quyền lại cho người khác giao kết hợp đồng lao động. Tùy theo tính chất công việc và nhu cầu sử dụng lao động, các bên phải giao kết hợp đồng lao động thuộc một trong các loại sau: 1. Hợp đồng lao động không xác định thời hạn: là hợp đồng mà trong đó hai bên không xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng. 2. Hợp đồng lao động xác định thời hạn: là hợp đồng mà trong đó hai bên xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng trong thời gian không quá 36 tháng kể từ thời điểm có hiệu lực của hợp đồng.  Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày hợp đồng lao động xác định thời hạn hết hạn mà các bên vẫn tiếp tục quan hệ lao động thì phải tiến hành giao kết hợp đồng lao động mới. Trong thời gian chưa ký kết hợp đồng lao động mới thì quyền, nghĩa vụ và lợi ích của hai bên được thực hiện theo hợp đồng đã giao kết. Ngược lại, nếu hết thời hạn 30 ngày mà các bên không tiến hành giao kết hợp đồng lao động mới, thì mặc nhiên: hợp đồng lao động xác định thời hạn đã giao kết sẽ trở thành hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Trường hợp các bên bên ký kết hợp đồng lao động mới là hợp đồng xác định thời hạn thì cũng chỉ được ký thêm 01 lần, sau đó nếu người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì phải ký kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn, trừ một số trường hợp sau: (1) Đối với người được thuê làm giám đốc trong công ty cổ phần có vốn nhà nước. (2) Trường hợp khi sử dụng người lao động cao tuổi, hai bên có thể thỏa thuận giao kết nhiều lần hợp đồng lao động xác định thời hạn. (3) Thời hạn người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam không được vượt quá thời hạn của Giấy phép lao động. Khi sử dụng người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, hai bên có thể thỏa thuận giao kết nhiều lần hợp đồng lao động xác định thời hạn. (4) Người lao động là thành viên ban lãnh đạo của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở đang trong nhiệm kỳ mà hết hạn hợp đồng lao động thì phải được gia hạn hợp đồng đã giao kết đến hết nhiệm kỳ. Hiện nay, không có văn bản pháp luật nào ban hành kèm theo các mẫu hợp đồng lao động mà việc thể hiện như thế nào là hoàn toàn do các bên thống nhất thỏa thuận; miễn là đảm bảo đáp ứng các điều kiện, nội dung được quy định tại Điều 21 Bộ luật Lao động 2019 và các văn bản liên quan quy định. 3. Một số lưu ý khi công ty cổ phần giao kết hợp đồng lao động Công ty cổ phần tuyệt đối KHÔNG được: - Giữ bản chính giấy tờ tuỳ thân, văn bằng, chứng chỉ của người lao động; - Yêu cầu người lao động phải thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tiền hoặc tài sản khác cho việc thực hiện hợp đồng lao động; - Buộc người lao động thực hiện hợp đồng lao động để trả nợ cho công ty cổ phần. Sau khi giao kết hợp đồng lao động thì công ty cổ phần có trách nhiệm Thông báo về tình hình biến động lao động hàng tháng ở công ty cổ phần, việc khai báo phải thực hiện trước ngày 03 của tháng liền kề. Xem chi tiết tại công việc: "Thông báo về tình hình biến động lao động nếu có hàng tháng".  Đồng thời thực hiện thủ tục Báo tăng lao động cho cơ quan Bảo hiểm xã hội quản lý trực tiếp trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày giao kết hợp đồng lao động. Xem chi tiết tại công việc: "Đăng ký điều chỉnh đóng BHXH, BHYT, BHTN".   

Chi Tiết
01 Admin Post
Nguyễn Hoàng Sơn 2023-09-07
HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG VÔ HIỆU DO KÝ SAI THẨM QUYỀN, CÁC BÊN CẦN LÀM GÌ?

1. Hợp đồng lao động ký sai thẩm quyền có bị vô hiệu không? Tại khoản 1 Điều 49 Bộ luật Lao động 2019 quy định về hợp đồng vô hiệu như sau: “Điều 49. Hợp đồng lao động vô hiệu 1. Hợp đồng lao động vô hiệu toàn bộ trong trường hợp sau đây: a) Toàn bộ nội dung của hợp đồng lao động vi phạm pháp luật; b) Người giao kết hợp đồng lao động không đúng thẩm quyền hoặc vi phạm nguyên tắc giao kết hợp đồng lao động quy định tại khoản 1 Điều 15 của Bộ luật này; c) Công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động là công việc mà pháp luật cấm.” Như vậy, khi hợp đồng lao động do người không có thẩm quyền ký kết thì sẽ bị vô hiệu toàn bộ. 2. Hợp đồng lao động vô hiệu do ký sai thẩm quyền, các bên cần làm gì? 2.1. Trường hợp hai bên ký kết lại hợp đồng lao động Theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 10 Nghị định 145/2020/NĐ-CP, khi hợp đồng lao động bị tuyên bố vô hiệu toàn bộ, người lao động và công ty ký lại hợp đồng lao động theo đúng quy định của pháp luật. Tức là, trong trường hợp này thì người có thẩm quyền bên phía công ty và người lao động tiến hành ký kết lại hợp đồng lao động. Bên cạnh đó, quyền, nghĩa vụ và lợi ích của người lao động kể từ khi bắt đầu làm việc theo hợp đồng lao động bị tuyên bố vô hiệu cho đến khi hợp đồng lao động được ký lại thực hiện như sau: - Nếu quyền, lợi ích của mỗi bên trong hợp đồng lao động không thấp hơn quy định của pháp luật, thỏa ước lao động tập thể đang áp dụng thì quyền, nghĩa vụ, lợi ích của người lao động được thực hiện theo nội dung hợp đồng lao động bị tuyên bố vô hiệu. - Nếu hợp đồng lao động có nội dung về quyền, nghĩa vụ, lợi ích của mỗi bên vi phạm pháp luật nhưng không ảnh hưởng đến phần nội dung khác của hợp đồng lao động thì quyền, nghĩa vụ và lợi ích của người lao động thực hiện theo thỏa ước lao động tập thể đang áp dụng, trường hợp không có thỏa ước lao động tập thể thì thực hiện theo quy định của pháp luật. Trường hợp hợp đồng lao động bị tuyên bố vô hiệu có tiền lương thấp hơn so với quy định của pháp luật về lao động, thỏa ước lao động tập thể đang áp dụng thì hai bên phải thỏa thuận lại mức lương cho đúng quy định và người sử dụng lao động có trách nhiệm xác định phần chênh lệch giữa tiền lương đã thỏa thuận lại so với tiền lương trong hợp đồng lao động bị tuyên bố vô hiệu để hoàn trả cho người lao động tương ứng với thời gian làm việc thực tế theo hợp đồng lao động bị tuyên bố vô hiệu. - Thời gian người lao động làm việc theo hợp đồng lao động bị tuyên bố vô hiệu được tính là thời gian làm việc của người lao động cho công ty để làm căn cứ thực hiện chế độ theo quy định của pháp luật về lao động. 2.2. Trường hợp hai bên không ký lại hợp đồng lao động Trường hợp người lao động và công ty không tiến hành ký lại hợp đồng lao động bị tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì: - Thực hiện chấm dứt hợp đồng lao động. - Quyền, nghĩa vụ, lợi ích của người lao động kể từ khi bắt đầu làm việc theo hợp đồng lao động bị tuyên bố vô hiệu cho đến khi chấm dứt hợp đồng lao động được thực hiện theo Mục 2.1 nêu trên. - Giải quyết chế độ trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 8 Nghị định 145/2020/NĐ-CP. (Căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 10 Nghị định 145/2020/NĐ-CP). Lưu ý: Các vấn đề khác liên quan đến việc xử lý hợp đồng lao động vô hiệu toàn bộ do người giao kết không đúng thẩm quyền thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.  

Chi Tiết
01 Admin Post
Nguyễn Hoàng Sơn 2023-09-07
HỢP ĐỒNG THỎA THUẬN CẢ TRỌNG TÀI VÀ TÒA ÁN THÌ CHỌN CƠ QUAN NÀO GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP?

1. Thẩm quyền giải quyết khi các bên thỏa thuận cả Trọng tài và Tòa án có quyền giải quyết tranh chấp Theo quy định tại khoản 4 Điều 2 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành Quy định Luật Trọng tài thương mại thì: 4. Trường hợp các bên vừa có thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài, vừa có thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng Tòa án mà các bên không có thỏa thuận lại hoặc thỏa thuận mới về cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp và không thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này mà phát sinh tranh chấp thì xử lý như sau: a) Trường hợp người khởi kiện yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp trước khi yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hoặc yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp khi Tòa án chưa thụ lý vụ án quy định tại điểm b khoản 4 Điều này thì Tòa án căn cứ quy định tại Điều 6 Luật TTTM để từ chối thụ lý, giải quyết. Trong trường hợp này, khi nhận được đơn khởi kiện Tòa án phải trả lại đơn khởi kiện, nếu đã thụ lý vụ án thì căn cứ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 192 BLTTDS ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án vì không thuộc thẩm quyền của Tòa án, trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu gửi kèm theo đơn khởi kiện. b) Trường hợp người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp, thì ngay sau khi nhận được đơn khởi kiện, Tòa án phải xác định một trong các bên đã yêu cầu Trọng tài giải quyết hay chưa. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện mà Tòa án xác định người bị kiện, người khởi kiện đã yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, trường hợp người bị kiện, người khởi kiện chưa yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp thì Tòa án xem xét thụ lý giải quyết theo thủ tục chung. Trường hợp Tòa án đã thụ lý vụ án mà phát hiện tranh chấp đã có yêu cầu Trọng tài giải quyết trước thời điểm Tòa án thụ lý vụ án thì Tòa án căn cứ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 192 BLTTDS ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án vì không thuộc thẩm quyền của Tòa án, trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu gửi kèm theo đơn khởi kiện. Như vậy, phía công ty mới chỉ soạn thảo hợp đồng và chưa có phát sinh tranh chấp. Khi có tranh chấp thì các bên có thể lựa chọn Trọng Tài hoặc Tòa án để giải quyết. Trường hợp mà công ty bạn có mong muốn khởi kiện ở Trọng tài để giải quyết tranh chấp thì có thể lựa chọn cơ quan này. Bên cạnh đó, trường hợp người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp, thì ngay sau khi nhận được đơn khởi kiện, Tòa án phải xác định một trong các bên đã yêu cầu Trọng tài giải quyết hay chưa theo hướng dẫn tại Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP. 2. Muốn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài phải có điều kiện gì? Theo quy định tại Điều 5 Luật Trọng tài thương mại 2010 thì điều kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài như sau: Điều 5. Điều kiện giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài 1. Tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thoả thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp. Theo đó, muốn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thì các bên có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận này có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp. 3. Thỏa thuận trọng tài vô hiệu trong trường hợp nào? Theo quy định tại Điều 18 Luật Trọng tài thương mại 2010 thì thỏa thận trọng tài vô hiệu trong các trường hợp sau: - Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài quy định tại Điều 2 của Luật Trọng tài thương mại 2010. - Người xác lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. - Người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự. - Hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16 của Luật Trọng tài thương mại 2010. - Một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép trong quá trình xác lập thoả thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vô hiệu. - Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.   

Chi Tiết
01 Admin Post
Nguyễn Hoàng Sơn 2023-09-13
HÓA ĐƠN ĐIỆN TỬ DO CƠ QUAN THUẾ CẤP CÓ CẦN CHỮ KÝ SỐ CỦA NGƯỜI BÁN, NGƯỜI MUA?

1. Chữ ký số trên hóa đơn điện tử Theo Khoản 6 Điều 3 Nghị định 130/2018 NĐ-CP quy định: “6. Chữ ký số là một dạng chữ ký điện tử được tạo ra bằng sự biến đổi một thông điệp dữ liệu sử dụng hệ thống mật mã không đối xứng, theo đó, người có được thông điệp dữ liệu ban đầu và khóa công khai của người ký có thể xác định được chính xác: a) Việc biến đổi nêu trên được tạo ra bằng đúng khóa bí mật tương ứng với khóa công khai trong cùng một cặp khóa; b) Sự toàn vẹn nội dung của thông điệp dữ liệu kể từ khi thực hiện việc biến đổi nêu trên.”Chữ ký số là một trong những yếu tố xác thực, là điều kiện làm nên tính pháp lý của hóa đơn điện tử.Trên hóa đơn điện tử thường có 02 loại chữ ký số của 02 chủ thể tham gia giao dịch là chữ ký số của người bán và người mua. Theo đó, tại Khoản 7 Điều 10 Nghị định 123/2020/NĐ-CP quy định chữ ký của người bán trên hóa đơn điện tử như sau:- Trường hợp người bán là doanh nghiệp, tổ chức thì chữ ký số của người bán trên hóa đơn là chữ ký số của doanh nghiệp, tổ chức; - Trường hợp người bán là cá nhân thì sử dụng chữ ký số của cá nhân hoặc người được ủy quyền.- Trường hợp hóa đơn điện tử không nhất thiết phải có chữ ký số của người bán và người mua thực hiện theo quy định tại khoản 14 Điều 10 Nghị định 123/2020/NĐ-CP.2. Trường hợp không nhất thiết phải có chữ ký số của người bán và người muaCăn cứ Điều 14 Nghị định 123/2020/NĐ-CP, trong đó quy định một số trường hợp hóa đơn điện tử không nhất thiết có chữ ký số của người bán và người mua trên hóa đơn điện tử, bao gồm:- Trên hóa đơn điện tử không nhất thiết phải có chữ ký điện tử của người mua (kể cả trường hợp bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ cho khách hàng ở nước ngoài). Trừ trường hợp người mua là cơ sở kinh doanh và người mua, người bán có thỏa thuận về việc người mua đáp ứng các điều kiện kỹ thuật để ký số, ký điện tử trên hóa đơn điện tử do người bán lập thì hóa đơn điện tử có chữ ký số, ký điện tử của người bán và người mua theo thỏa thuận giữa hai bên.- Đối với hóa đơn điện tử của cơ quan thuế cấp theo từng lần phát sinh: Không nhất thiết phải có chữ ký số của người bán, người mua.- Đối với hóa đơn điện tử bán hàng tại siêu thị, trung tâm thương mại mà người mua là cá nhân không kinh doanh thì trên hóa đơn không nhất thiết phải có tên, địa chỉ, mã số thuế người mua.- Đối với hóa đơn điện tử bán xăng dầu cho khách hàng là cá nhân không kinh doanh thì không nhất thiết phải có các chỉ tiêu tên hóa đơn, ký hiệu mẫu số hóa đơn, ký hiệu hóa đơn, số hóa đơn; tên, địa chỉ, mã số thuế của người mua, chữ ký điện tử của người mua; chữ ký số, chữ ký điện tử của người bán, thuế suất thuế giá trị gia tăng.- Đối với hóa đơn điện tử là tem, vé, thẻ thì trên hóa đơn không nhất thiết phải có chữ ký số của người bán (trừ trường hợp tem, vé, thẻ là hóa đơn điện tử do cơ quan thuế cấp mã), tiêu thức người mua (tên, địa chỉ, mã số thuế), tiền thuế, thuế suất thuế giá trị gia tăng. Trường hợp tem, vé, thẻ điện tử có sẵn mệnh giá thì không nhất thiết phải có tiêu thức đơn vị tính, số lượng, đơn giá.- Đối với chứng từ điện tử dịch vụ vận tải hàng không xuất qua website và hệ thống thương mại điện tử được lập theo thông lệ quốc tế cho người mua là cá nhân không kinh doanh được xác định là hóa đơn điện tử thì trên hóa đơn không nhất thiết phải có ký hiệu hóa đơn, ký hiệu mẫu hóa đơn, số thứ tự hóa đơn, thuế suất thuế giá trị gia tăng, mã số thuế, địa chỉ người mua, chữ ký số của người bán.- Hóa đơn sử dụng cho thanh toán Interline giữa các hãng hàng không được lập theo quy định của Hiệp hội vận tải hàng không quốc tế thì trên hóa đơn không nhất thiết phải có các chỉ tiêu: ký hiệu hóa đơn, ký hiệu mẫu hóa đơn, tên địa chỉ, mã số thuế của người mua, chữ ký số của người mua, đơn vị tính, số lượng, đơn giá.Như vậy, hoá đơn điện tử của cơ quan thuế cấp theo từng lần phát sinh không nhất thiết phải có chữ ký số của người bán, người mua. Hoá đơn điện tử của cơ quan thuế cấp theo từng lần phát sinh là hoá đơn có ký hiệu được quy định tại Điều 4 Thông tư 78/2021/TT-BTC.

Chi Tiết
01 Admin Post
Nguyễn Hoàng Sơn 2023-09-13
THỦ ĐOẠN GIAN DỐI TRONG CẤU THÀNH TỘI “LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN” VÀ TỘI “CƯỚP GIẬT TÀI SẢN”

Thực tiễn áp dụngĐối với hành vi người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối với mục đích chiếm đoạt tài sản trong một số trường hợp còn tồn tại quan điểm khác nhau về việc định tội danh.Ví dụ 1: Nguyễn Văn A. đi vào cửa hàng mua bán điện thoại, trong lúc đang xem điện thoại, A. nói sẽ mua 01 chiếc điện thoại rồi nhờ chị B. là nhân viên bán hàng tư vấn và đưa cho A. xem điện thoại định mua. Sau khi cầm điện thoại trên tay, lợi dụng chị B. vừa quay mặt ra chỗ khác nên A. nhanh chóng cầm điện thoại bỏ chạy.Ví dụ 2: Qua tìm hiểu trên mạng, anh Trần H. biết đến địa chỉ bán hàng online của anh Phạm T. (anh T. bán điện thoại các loại). Với mục đích chiếm đoạt tài sản đem bán lấy tiền chi tiêu cá nhân, anh H. nói chuyện trao đổi với anh T. về việc mua điện thoại. Sau khi thống nhất giá cả, điện thoại sẽ mua, anh H. hẹn anh T. đến địa điểm tại thành phố S để giao dịch trả tiền và nhận điện thoại. Do không có tiền để trả cho anh T. nên H. đã nhờ T. chở đi xung quanh thành phố S. đến chỗ người thân mượn tiền mặt trả cho anh T. Trên đường đi, anh H. yêu cầu anh T. cho xem điện thoại để kiểm tra rồi yêu cầu dừng xe để vào nhà người thân mượn tiền. Sau khi anh T. dừng xe, H. nhanh chóng cầm điện thoại bỏ chạy.Trong hai ví dụ nêu trên, quan điểm thứ nhất cho rằng hành vi của các đối tượng dùng thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản cấu thành tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự. Quan điểm thứ hai cho rằng, hành vi của các đối tượng thỏa mãn yếu tố cấu thành tội "Cướp giật tài sản" theo quy định tại Điều 171 Bộ luật Hình sự.Mặc dù tồn tại quan điểm khác nhau, tuy nhiên, thực tiễn áp dụng các Cơ quan tiến hành tố tụng đều xét xử các hành vi trên về tội cướp giật tài sản là có căn cứ, bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, áp dụng đúng pháp luật. Bởi lẽ:Về tội "Cướp giật tài sản" (Điều 171 Bộ luật Hình sự)Điều 171 Bộ luật Hình sự về tội Cướp giật tài sản1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:a) Có tổ chức;b) Có tính chất chuyên nghiệp;…Xét về hành vi khách quan: Do điều luật không mô tả hành vi khách quan của tội "Cướp giật tài sản", căn cứ vào khái niệm và các yếu tố cấu thành tội "Cướp giật tài sản", qua tổng kết thực tiễn có thể xác định đặc trưng của tội "Cướp giật tài sản" là hành vi giật, tức là giằng mạnh lấy tài sản về mình một cách nhanh chóng (ngay tức khắc). Chính vì hành vi giật tài sản đã bao gồm bản chất của tội cướp giật nên nhà làm luật không mô tả hành vi khách quan của tội cướp giật trong điều luật.Thực tiễn xét xử tội "Cướp giật tài sản" thì hành vi khách quan của tội phạm này thể hiện rất đa dạng và phức tạp. Hành vi cướp giật tài sản thường biểu hiện dưới dạng lợi dụng sơ hở của người khác để giật lấy, giằng lấy tài sản đang trong sự quản lý của người khác rồi nhanh chóng tẩu thoát. Ví dụ: hành vi giật dây chuyền vàng, giật túi xách, điện thoại,… Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp người phạm tội sử dụng thủ đoạn xảo quyệt, gian dối để tiếp cận tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác, sau đó nhanh chóng thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản rồi bỏ trốn. Hành vi cướp giật tài sản dù thực hiện ở dạng thông thường hay phức tạp nhưng dấu hiệu thể hiện rõ nhất cấu thành loại tội phạm này để phân biệt với các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt khác đó là “hành vi thực hiện công khai, nhanh chóng, bất ngờ” làm cho người bị hại dù biết việc bị chiếm đoạt tài sản nhưng không kịp phản ứng.Về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" (Điều 174 Bộ luật Hình sự)Điều 174. Bộ luật Hình sự về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại.…Mặt khách quan của tội phạm: Hành vi khách quan của tội phạm này thể hiện ở hành vi gian dối và hành vi chiếm đoạt. Cụ thể là người phạm tội đã đưa ra những thông tin không đúng sự thật làm cho chủ sở hữu tài sản hoặc người quản lý tài sản do nhầm tưởng mà tự nguyện chuyển giao quyền sở hữu về tài sản hoặc chuyển giao quyền quản lý tài sản cho người phạm tội. Hơn nữa, trong tội lừa đảo, sau khi người phạm tội chiếm đoạt được tài sản một khoảng thời gian nhất định người quản lý tài sản mới phát hiện được là mình bị lừa đảo, người bị lừa đảo tự mình chuyển giao quyền quản lý tài sản hoặc chuyển giao quyền sở hữu về tài sản cho người thực hiện hành vi lừa đảo sau khi bị người phạm tội thực hiện hành vi gian dối (lừa đảo). Đây chính là dấu hiệu đặc trưng để phân biệt đối với tội "Cướp giật tài sản".Ví dụ điển hình về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản": Khi biết bà B. ở thành phố S tỉnh Đ. cho vay tiền chỉ cần thế chấp giấy tờ là chứng minh nhân dân, Anh C. có địa chỉ tại thành phố S đã làm giả CMND thế chấp vay tiền bà B. số tiền 100 triệu đồng. Sau khi lấy được tiền đã chuyển đi nơi khác sinh sống để trốn tránh hành vi lừa đảo của mình.Đối chiếu với ví dụ đưa ra, hoàn toàn không có căn cứ khi cho rằng các đối tượng phạm tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản".Vấn đề cần lưu ýNhư vậy, trong một số trường hợp đặc biệt, giữa tội cướp giật tài sản và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có điểm chung đó là người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối với mục đích nhằm chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, thủ đoạn gian dối trong tội "Lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản" là hành vi của người phạm tội làm cho bị hại tin tưởng là sự thật nên đã tự nguyện giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho người phạm tội có quyền sở hữu hoặc quyền quản lý tài sản.Thời điểm người bị hại biết bị lừa đảo là sau khi người phạm tội chiếm đoạt được tài sản một khoảng thời gian nhất định. Thủ đoạn gian dối trong tội "Cướp giật tài sản" cũng tương tự như tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản", nhưng không có sự việc người bị hại tin tưởng và tự nguyện giao tài sản mà người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối trước, sau đó lợi dụng sơ hở của bị hại để nhanh chóng chiếm đoạt tài sản. Người bị hại hoàn toàn nhận thức được việc bị chiếm đoạt tài sản trong thời điểm đó nhưng do hành vi chiếm đoạt của người phạm tội thực hiện quá nhanh nên họ không kịp phản ứng.Nguồn: Tạp chí Tòa án

Chi Tiết
01 Admin Post
Nguyễn Hoàng Sơn 2023-09-13
ĐỊNH TỘI ĐỐI VỚI HÀNH VI SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản trên không gian mạng, đặc biệt là mạng xã hội facebook đang diễn ra hết sức phức tạp về cách thức cũng như hành vi… Vấn đề định tội đối với hành vi này của các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực tiễn chưa có sự thống nhất. Từ việc phân tích, bình luận vụ án cụ thể, tác giả đưa ra quan điểm cá nhân để bạn đọc cùng trao đổi.Hai vụ án cụ thể về sử dụng mạng xã hội lừa đảo chiếm đoạt tài sảnVụ án thứ nhất: Từ tháng 6/2020, trên mạng xã hội, Hoàng Hữu A, sinh năm 1996, trú tại xã T, huyện P, tỉnh T sử dụng tài khoản facebook có tên “Quậy Harold”, vào các nhóm của cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống, lao động tại nước ngoài, gửi lời kết bạn đến các thành viên trong nhóm. Sau khi kết bạn, A vào trang cá nhân của họ tìm kiếm thông tin cá nhân (họ tên, ngày, tháng, năm sinh) để dò tìm mật khẩu. Khi tìm được mật khẩu, A thay đổi mật khẩu và chiếm đoạt quyền sử dụng các tài khoản facebook này, đồng thời vào danh sách bạn bè của họ, xem nội dung, lịch sử nhắn tin trong mục messenger để mạo danh nhắn tin đề nghị họ chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng của mình, với lý do cần tiền để giải quyết công việc, rồi chiếm đoạt. A đã chiếm đoạt được tài khoản facebook “Van H Nguyen” của anh Nguyễn Văn H, là người tỉnh B, đang làm việc tại Cộng hòa Liên bang Đức. A sử dụng tài khoản facebook này, mạo danh anh H, nhắn tin bằng ứng dụng messenger cho tài khoản “H Nước” của anh Lê Thanh H (sinh năm 1974, trú tại phường Đ, thành phố H) và tài khoản facebook “Nguyễn Thị D” của chị Nguyễn Thị D (sinh năm 1971, trú tại  huyện Q, tỉnh B), đề nghị anh H, chị D chuyển tiền, rồi chiếm đoạt. Tổng số tiền A chiếm đoạt là 109,5 triệu đồng, trong đó của anh Lê Thanh H là 72 triệu đồng, của chị Nguyễn Thị D là 37,5 triệu đồng.Hoàng Hữu A bị truy tố và xét xử về Tội sử dụng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, theo điểm đ khoản 2 Điều 290 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015.Vụ án thứ hai: Đầu năm 2020, Nguyễn Thế V sinh năm 1995, trú tại xã T, huyện P, tỉnh T đã truy cập vào website Weebly.com để tạo lập tài khoản và website giả có hình ảnh, tên miền là “binhchongionghatViet.Weebly.com”. Sau đó V lập tài khoản facebook, kết bạn với nhiều người, nhắn tin trò chuyện qua ứng dụng messenger và gửi đường link của website có nội dung bình chọn giọng hát Việt đến cho họ, đề nghị họ truy cập đường link để bình chọn cho người thân của mình. Khi có người bình chọn, đường link này sẽ dẫn đến một website giả do V tạo lập, có khung đăng nhập tài khoản facebook, khi họ nhập tên và mật khẩu để đăng nhập thì thông tin này sẽ được gửi đến tài khoản Weebly của V.Nguyễn Thế V khi có được thông tin liền cung cấp các tài khoản facebook này cho Lê Anh H (sinh năm 1995, trú tại xã L, huyện T, tỉnh Q) sử dụng để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của những người thân quen với những người có facebook bị chiếm đoạt. Cụ thể, khoảng 17 giờ ngày 23/3/2020, Nguyễn Thế V thông tin cho Lê Anh H về tài khoản facebook của anh Lê Văn Q (sinh năm 1990, quê quán huyện T, tỉnh Q, đang lao động tại Cộng hòa Ba Lan). Lê Anh H đã đăng nhập vào tài khoản facebook của anh Q, thay đổi mật khẩu và chiếm đoạt quyền sử dụng. H vào đọc nội dung tin nhắn của anh Q, tìm kiếm bạn bè có trong danh bạ, nhắn tin yêu cầu họ chuyển tiền để chiếm đoạt. Trong đêm 23 và 24/3/2020, H giả danh anh Q, nhắn tin với tài khoản facebook “Kim Thiên Tử” của anh Lê Văn T (sinh năm 1995, là em trai của anh Q, trú tại xã T, huyện B, tỉnh Q), đề nghị anh T chuyển tiền. Anh Lê Văn T tưởng đó là anh trai mình yêu cầu, nên đã chuyển tiền 3 lần vào tài khoản do H cung cấp, với tổng số tiền là 58 triệu đồng. H đã chiếm đoạt số tiền này.Sau khi chiếm đoạt được quyền sử dụng tài khoản facebook của anh Lê Văn Q, chiếm đoạt được số tiền 58 triệu đồng của anh Lê Văn T; Lê Anh H đã đưa tài khoản facebook của anh Lê Văn Q cho Đỗ Duy A (sinh năm 1998, trú tại xã L, huyện T, tỉnh Q). Đỗ Duy A vào mục danh sách bạn bè trong facebook của anh Lê Văn Q, tìm những người Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài, lấy thông tin cá nhân và hình ảnh trên trang công khai của họ, rồi tạo lập facebook giả có thông tin và hình ảnh giống với facebook thật của họ để nhắn tin nhằm lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Cụ thể, cuối tháng 3/2020, Đỗ Duy A sử dụng thông tin và hình ảnh của anh Nguyễn Tiến K (sinh năm 1991, trú tại thị xã Đ, tỉnh B) để tạo lập tài khoản facebook giả mạo giống với tài khoản facebook của anh K. Sau đó, Đỗ Duy A sử dụng tài khoản facebook giả, kết bạn với chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1990, trú tại thị xã B, tỉnh Q. Ngày 29/3/2020, A sử dụng facebook giả và giả danh anh K nhắn tin, đề nghị chị L chuyển số tiền 06 triệu đồng vào số tài khoản ngân hàng do A cung cấp nhằm mục đích chiếm đoạt. Chị L tưởng người thân của mình là anh K yêu cầu nên làm thủ tục chuyển tiền, nhưng đã kịp thời phát hiện mình bị lừa nên dừng giao dịch. Vì vậy A chưa chiếm đoạt được số tiền 06 triệu đồng của chị L.Nguyễn Thế V và Lê Anh H bị điều tra, truy tố và xét xử về Tội sử dụng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, theo điểm đ khoản 2 Điều 290 BLHS năm 2015; Đỗ Duy A bị điều tra, truy tố và xét xử về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, theo khoản 1 Điều 174 BLHS năm 2015.Vấn đề định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sảnVề việc điều tra, truy tố và xét xử đối với hai vụ án trên, tác giả có một số ý kiến trao đổi về định tội danh như sau:Thứ nhất, theo quy định tại Điều 290 BLHS năm 2015, hành vi chiếm đoạt tài sản bằng các công cụ phạm tội như sử dụng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet và thiết bị số thể hiện ở một số dạng sau:a) Sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ;b) Làm, tàng trữ, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả nhằm chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ;c) Truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản;d) Lừa đảo trong thương mại điện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc giao dịch chứng khoán qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản;đ) Thiết lập, cung cấp trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm chiếm đoạt tài sản.Do đó, nếu một hành vi thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm không trong các hành vi trên thì không thể truy tố, xét xử người đó về Tội sử dụng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản theo Điều 290 BLHS năm 2015 được.Trở lại hai vụ án trên, có thể thấy dấu hiệu thuộc hành vi khách quan của các bị can, bị cáo bị truy tố và xét xử về Tội sử dụng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, không thỏa mãn bất cứ hành vi nào trong năm loại hành vi khách quan nói trên. Cụ thể, hành vi tìm được, lấy được mật khẩu để chiếm đoạt tài khoản facebook của người khác, sau đó tiếp tục lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người thân quen của những người có tài khoản facebook bị chiếm đoạt không phải là hành vi được quy định tại các điểm a, c khoản 1 Điều 290 BLHS năm 2015.Thực chất ở đây có xảy ra sự đồng âm khác nghĩa đối với thuật ngữ “tài khoản”, dẫn đến có sự nhầm lẫn. Cụ thể, thuật ngữ “tài khoản” quy định tại Điều 290 BLHS năm 2015 là nói đến tài khoản về tiền được đăng ký ở các tổ chức tín dụng, nghĩa là khi xảy ra việc sử dụng thông tin về tài khoản, truy cập bất hợp pháp vào tài khoản là ngay sau đó có thể chiếm đoạt được tiền, tài sản; còn “tài khoản facebook” không liên quan gì đến tiền, tài sản. Việc chiếm đoạt được tài khoản facebook của người khác thực chất chỉ là việc có được mật khẩu facebook của họ, nên có được những thông tin và đăng được những thông tin trên đó (mà lẽ ra việc này chỉ có người lập ra facebook của mình mới thực hiện được); đồng thời, thay đổi mật khẩu để chính người đã lập ra facebook không vào được facebook của họ để xem và đăng thông tin trong đó. Như vậy, việc chiếm đoạt facebook không liên quan gì đến việc chiếm đoạt tiền, tài sản. Muốn chiếm đoạt được tài sản của người khác, người chiếm đoạt tài khoản facebook phải có thêm hành vi khác, đó là giả danh người chủ tài khoản facebook để liên hệ với bạn bè, người thân của họ, yêu cầu những người này chuyển tiền vào một tài khoản ngân hàng nào đó mà người đã chiếm đoạt tài khoản facebook đang quản lý để chiếm đoạt khi tiền được chuyển đến. Như vậy, hành vi chiếm đoạt tài khoản facebook, sau đó lừa những người thân quen của những người có tài khoản facebook bị chiếm đoạt để chiếm đoạt tài sản của họ cũng không phải là hành vi được quy định tại các điểm b, d, đ khoản 1 Điều 290 BLHS năm 2015.Do đó, việc truy tố, xét xử các bị can, bị cáo trong hai vụ án nói trên về Tội sử dụng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, theo Điều 290 BLHS năm 2015 là không thỏa đáng.Thứ hai, Điều 290 BLHS năm 2015 là điều luật được sửa đổi, bổ sung từ Điều 226b BLHS năm 1999. Trong thời gian Điều 226b có hiệu lực thi hành, có một vướng mắc khi định tội danh, đó là một hành vi khách quan thỏa mãn ít nhất một trong các dấu hiệu quy định tại các điểm a, b, c, d khoản 1 Điều 226b BLHS năm 1999, đồng thời hành vi này cũng thỏa mãn các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm của Tội trộm cắp tài sản (Điều 138 BLHS năm 1999), hoặc Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139 BLHS năm 1999). Để tháo gỡ vướng mắc này, BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung Điều 226b thành Điều 290 như sau: “1. Người nào sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử thực hiện một trong những hành vi sau đây, nếu không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 173 và Điều 174 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) …”Theo quy định trên, nếu người thực hiện hành vi vừa thỏa mãn các dấu hiệu tại Điều 173 hoặc Điều 174 BLHS năm 2015, vừa thỏa mãn dấu hiệu tại ít nhất một trong các điểm a, b, c, d, đ khoản 1 Điều 290 BLHS năm 2015, thì phải truy tố, xét xử người này về Tội trộm cắp tài sản hoặc về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 173, Điều 174 BLHS năm 2015).Về hai vụ án nói trên, rõ ràng hành vi của các bị can, bị cáo hoàn toàn thỏa mãn các dấu hiệu của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cụ thể là người phạm tội đã có hành vi gian dối, làm cho bị hại tưởng giả là thật để chuyển giao tài sản của mình cho các bị can, bị cáo và các bị can, bị cáo đã chiếm đoạt tài sản khi được chuyển giao. Hành vi này như đã phân tích ở phần trước không phải là một trong các hành vi quy định tại các điểm a, b, c, d, đ khoản 1 Điều 290 BLHS năm 2015. Do đó, theo tác giả, phải điều tra, truy tố, xét xử các bị can, bị cáo về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 BLHS năm 2015. Mặt khác, trong trường hợp chưa có sự thống nhất về hiểu thuật ngữ “tài khoản”, thì vẫn phải truy tố, xét xử các bị can, bị cáo theo Điều 174 BLHS năm 2015 về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, vì các hành vi trên thỏa mãn các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Khi đã thỏa mãn các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì phải ưu tiên áp dụng tội danh này. Thực tiễn xét xử trước ngày 01/01/2010 (là ngày Điều 226b BLHS năm 1999 có hiệu lực pháp luật), các hành vi như hai vụ án nêu trên đều được điều tra, truy tố và xét xử về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Việc điều tra, truy tố và xét xử như vậy là hoàn toàn chính xác.Thứ ba, ở vụ án thứ hai, Lê Anh H sau khi được Nguyễn Thế V cung cấp mật khẩu facebook của anh Lê Văn Q, đã đăng nhập vào tài khoản này, thay đổi mật khẩu để chiếm đoạt tài khoản; sau đó, lợi dụng biết được một số thông tin trong tài khoản facebook này để thực hiện hành vi lừa đảo, chiếm đoạt tiền của anh Lê Văn T. Còn Đỗ Duy A lợi dụng việc bạn bè của mình là Nguyễn Thế V và Lê Anh H chiếm đoạt được tài khoản facebook của anh Lê Văn Q, biết được thông tin trong đó, đã có hành vi sử dụng hình ảnh của anh Nguyễn Tiến K, lập một facebook giả giống với facebook do anh Nguyễn Tiến K lập trước đó, tự xưng là anh K để lừa chị Nguyễn Thị L, yêu cầu chị L chuyển tiền cho mình nhằm chiếm đoạt. Có thể thấy hai loại hành vi này tuy biểu hiện bên ngoài khác nhau, nhưng bản chất pháp lý là hoàn toàn giống nhau, đó là đều giả danh người khác trên môi trường mạng xã hội để yêu cầu một người thân quen nào đó của người mà người thực hiện hành vi phạm tội giả danh, chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng do họ quản lý để chiếm đoạt. Do đó, nếu điều tra, truy tố, xét xử loại hành vi này theo hai tội danh khác nhau là không thuyết phục, vì thực chất đây đều là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Với các phân tích trên, tác giả cho rằng việc định tội danh bị can, bị cáo ở hai vụ án nói trên theo tội danh quy định tại Điều 290 BLHS năm 2015 là chưa chính xác.

Chi Tiết
01 Admin Post
Nguyễn Hoàng Sơn 2023-09-13
CÔNG TY CÓ THỂ CHỈ ĐỊNH CHI NHÁNH XUẤT HÓA ĐƠN KHÔNG?

1. Công ty có thể chỉ định chi nhánh xuất hóa đơn không?Theo quy định tại khoản 7 Điều 4 Nghị định 123/2020/NĐ-CP và khoản 1 Điều 3 Thông tư 78/2021/TT-BTC về nguyên tắc ủy nhiệm lập hóa đơn, cụ thể:- Người bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ là doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức khác được quyền ủy nhiệm cho bên thứ ba là bên có quan hệ liên kết với người bán, là đối tượng đủ điều kiện sử dụng hóa đơn điện tử và không thuộc trường hợp ngừng sử dụng hóa đơn điện tử theo quy định tại Điều 16 Nghị định 123/2020/NĐ-CP để lập hóa đơn điện tử cho hoạt động bán hàng hóa, dịch vụ. Quan hệ liên kết được xác định theo quy định của pháp luật về quản lý thuế;- Việc ủy nhiệm phải được lập bằng văn bản (hợp đồng hoặc thỏa thuận) giữa bên ủy nhiệm và bên nhận ủy nhiệm;- Hóa đơn được ủy nhiệm cho bên thứ ba lập vẫn phải thể hiện tên đơn vị bán là bên ủy nhiệm.- Việc ủy nhiệm phải thông báo cho cơ quan thuế khi đăng ký sử dụng hóa đơn điện tử;Theo quy định tại khoản 21 Điều 3 Luật quản lý thuế 2019 về các bên có quan hệ liên kết được giải thích như sau:Các bên có quan hệ liên kết là các bên tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc điều hành, kiểm soát, góp vốn vào doanh nghiệp; các bên cùng chịu sự điều hành, kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp bởi một tổ chức hoặc cá nhân; các bên cùng có một tổ chức hoặc cá nhân tham gia góp vốn; các doanh nghiệp được điều hành, kiểm soát bởi các cá nhân có mối quan hệ mật thiết trong cùng một gia đình.Đồng thời, theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Nghị định 132/2020/NĐ-CP về các bên có quan hệ liên kết là các bên có mối quan hệ thuộc một trong các trường hợp:- Một bên tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc điều hành, kiểm soát, góp vốn hoặc đầu tư vào bên kia;- Các bên trực tiếp hay gián tiếp cùng chịu sự điều hành, kiểm soát, góp vốn hoặc đầu tư của một bên khác.Như vậy, công ty chỉ định cho chi nhánh thực hiện xuất hóa đơn vẫn được pháp luật thừa nhận khi đáp ứng các điều kiện:+ Công ty thực hiện việc ủy nhiệm cho bên chi nhánh;+ Hợp đồng ủy nhiệm phải được lập bằng văn bản thể hiện đầy đủ các thông tin về hóa đơn ủy nhiệm..., tuân thủ các quy định pháp luật về hóa đơn chứng từ.2. Hợp đồng ủy nhiệm hoặc thỏa thuận ủy nhiệmTheo quy định tại khoản 2 Điều 3 Thông tư 78/2021/TT-BTC về hợp đồng ủy nhiệm, như sau:- Hợp đồng ủy nhiệm hoặc thỏa thuận ủy nhiệm phải thể hiện đầy đủ các thông tin về bên ủy nhiệm và bên nhận ủy nhiệm (tên, địa chỉ, mã số thuế, chứng thư số); thông tin về hóa đơn điện tử ủy nhiệm (loại hóa đơn, ký hiệu hóa đơn, ký hiệu mẫu số hóa đơn); mục đích ủy nhiệm; thời hạn ủy nhiệm; phương thức thanh toán hóa đơn ủy nhiệm (ghi rõ trách nhiệm thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ trên hóa đơn ủy nhiệm);- Bên ủy nhiệm và bên nhận ủy nhiệm có trách nhiệm lưu trữ văn bản ủy nhiệm và xuất trình khi cơ quan có thẩm quyền yêu cầu.Đồng thời, bên ủy nhiệm và bên nhận ủy nhiệm có trách nhiệm niêm yết trên website của đơn vị mình hoặc thông báo công khai trên phương tiện thông tin đại chúng để người mua hàng hóa, dịch vụ được biết về việc ủy nhiệm lập hóa đơn.Khi hết thời hạn ủy nhiệm hoặc chấm dứt trước thời hạn ủy nhiệm lập hóa đơn điện tử theo thỏa thuận giữa các bên thì bên ủy nhiệm, bên nhận ủy nhiệm hủy các niêm yết, thông báo trên website của đơn vị mình hoặc thông báo công khai trên phương tiện thông tin đại chúng về việc ủy nhiệm lập hóa đơn. Như vậy, công ty chỉ định ủy nhiệm cho chi nhánh xuất hóa đơn phải được lập bằng văn bản thể hiện đầy đủ các thông tin về bên ủy nhiệm và bên nhận ủy nhiệm; thông tin về hóa đơn điện tử ủy nhiệm; mục đích ủy nhiệm; thời hạn ủy nhiệm; phương thức thanh toán hóa đơn ủy nhiệm.

Chi Tiết
01 Admin Post
Nguyễn Hoàng Sơn 2023-09-13
NGUYÊN TẮC LẬP, GHI CHỈ TIÊU TÊN HÀNG HÓA TRÊN HÓA ĐƠN

1. Nguyên tắc lập, quản lý, sử dụng hóa đơn, chứng từTheo quy định tại khoản 3 Điều 3 Nghị định 123/2020/NĐ-CP về hóa đơn, chứng từ hợp pháp như sau:“Hóa đơn, chứng từ hợp pháp là hóa đơn, chứng từ đảm bảo đúng, đầy đủ về hình thức và nội dung theo quy định tại Nghị định này”Theo Điều 4 Nghị định 123/2020/NĐ-CP về nguyên tắc lập, quản lý, sử dụng hóa đơn, chứng từ, như sau:Khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ, người bán phải lập hóa đơn để giao cho người mua (bao gồm cả các trường hợp hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại, quảng cáo, hàng mẫu; hàng hóa, dịch vụ dùng để cho, biếu, tặng, trao đổi, trả thay lương cho người lao động và tiêu dùng nội bộ (trừ hàng hóa luân chuyển nội bộ để tiếp tục quá trình sản xuất); xuất hàng hóa dưới các hình thức cho vay, cho mượn hoặc hoàn trả hàng hóa) và phải ghi đầy đủ nội dung theo quy định tại Điều 10 Nghị định 123/2020/NĐ-CP, trường hợp sử dụng hóa đơn điện tử thì phải theo định dạng chuẩn dữ liệu của cơ quan thuế theo quy định tại Điều 12 Nghị định 123/2020/NĐ-CP.Theo đó, tại khoản 6 Điều 10 Nghị định 123/2020/NĐ-CP quy định về ghi nội dung tên hóa đơn, như sau:- Tên hàng hóa, dịch vụ: Trên hóa đơn phải thể hiện tên hàng hóa, dịch vụ bằng tiếng Việt.+ Trường hợp bán hàng hóa có nhiều chủng loại khác nhau thì tên hàng hóa thể hiện chi tiết đến từng chủng loại (ví dụ: điện thoại Samsung, điện thoại Nokia…).+ Trường hợp hàng hóa phải đăng ký quyền sử dụng, quyền sở hữu thì trên hóa đơn phải thể hiện các số hiệu, ký hiệu đặc trưng của hàng hóa mà khi đăng ký pháp luật có yêu cầu. Ví dụ: Số khung, số máy của ô tô, mô tô, địa chỉ, cấp nhà, chiều dài, chiều rộng, số tầng của một ngôi nhà…Trường hợp cần ghi thêm chữ nước ngoài thì chữ nước ngoài được đặt bên phải trong ngoặc đơn ( ) hoặc đặt ngay dưới dòng tiếng Việt và có cỡ chữ nhỏ hơn chữ tiếng Việt. Trường hợp hàng hóa, dịch vụ được giao dịch có quy định về mã hàng hóa, dịch vụ thì trên hóa đơn phải ghi cả tên và mã hàng hóa, dịch vụ.- Hóa đơn phải ghi rõ “kèm theo bảng kê số…, ngày… tháng... năm”. Bảng kê phải có tên, mã số thuế và địa chỉ của người bán, tên hàng hóa, dịch vụ, số lượng, đơn giá, thành tiền hàng hóa, dịch vụ bán ra, ngày lập, tên và chữ ký người lập Bảng kê.+ Trường hợp người bán nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ thì Bảng kê phải có tiêu thức “thuế suất giá trị gia tăng” và “tiền thuế giá trị gia tăng”. Tổng cộng tiền thanh toán đúng với số tiền ghi trên hóa đơn giá trị gia tăng.+ Hàng hóa, dịch vụ bán ra ghi trên Bảng kê theo thứ tự bán hàng trong ngày. Bảng kê phải ghi rõ “kèm theo hóa đơn số ngày… tháng... năm”.- Đơn giá hàng hóa, dịch vụ: Người bán ghi đơn giá hàng hóa, dịch vụ theo đơn vị tính nêu trên. Trường hợp các hàng hóa, dịch vụ sử dụng bảng kê để liệt kê các hàng hóa, dịch vụ đã bán kèm theo hóa đơn thì trên hóa đơn không nhất thiết phải có đơn giá.Như vậy, hóa đơn hợp pháp là hóa đơn đảm bảo đúng, đầy đủ về hình thức và nội dung theo quy định. Trên hóa đơn phải thể hiện tên hàng hóa, dịch vụ bằng tiếng Việt. Trường hợp cần ghi thêm chữ nước ngoài thì chữ nước ngoài được đặt bên phải trong ngoặc đơn ( ) hoặc đặt ngay dưới dòng tiếng Việt và có cỡ chữ nhỏ hơn chữ tiếng Việt. Trường hợp hàng hóa, dịch vụ được giao dịch có quy định về mã hàng hóa, dịch vụ thì trên hóa đơn phải ghi cả tên và mã hàng hóa, dịch vụ.2. Thời điểm lập hóa đơn theo quy địnhTheo quy định Điều 9 Nghị định 123/2020/NĐ-CP về thời điểm lập hóa đơn như sau:- Thời điểm lập hóa đơn đối với bán hàng hóa là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hàng hóa cho người mua, không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền. Gồm cả các hàng hóa:+ Bán tài sản nhà nước;+ Tài sản tịch thu;+ Sung quỹ nhà nước;+ Bán hàng dự trữ quốc gia.- Thời điểm lập hóa đơn đối với cung cấp dịch vụ là thời điểm hoàn thành việc cung cấp dịch vụ không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền.Trường hợp người cung cấp dịch vụ có thu tiền trước hoặc trong khi cung cấp dịch vụ thì thời điểm lập hóa đơn là thời điểm thu tiền (không bao gồm trường hợp thu tiền đặt cọc hoặc tạm ứng để đảm bảo thực hiện hợp đồng cung cấp các dịch vụ: kế toán, kiểm toán, tư vấn tài chính, thuế; thẩm định giá; khảo sát, thiết kế kỹ thuật; tư vấn giám sát; lập dự án đầu tư xây dựng).- Trường hợp giao hàng nhiều lần hoặc bàn giao từng hạng mục, công đoạn dịch vụ thì mỗi lần giao hàng hoặc bàn giao đều phải lập hóa đơn cho khối lượng, giá trị hàng hóa, dịch vụ được giao tương ứng. Như vậy, đối với bán hàng hóa thì thời điểm lập hóa đơn là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu cho người mua, không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền. Ngoài ra đối với một số trường hợp cụ thể thì thời điểm lập hóa đơn sẽ khác nhau (khoản 4 Điều 9 Nghị định 123/2020/NĐ-CP).

Chi Tiết